TUỆ SỸ ĐẠO SƯ
Thơ và Phương Trời Mộng - Tập 2
Tác giả: Nguyên Siêu
Ban Tu Thư Phật Học Hải Đức Nha Trang
In lần thứ nhất
California - Hoa Kỳ 2006
Bốn
Người Tù Trong Ký Ức Thi Nhân
Con người sinh tồn trong cõi mộng đã không nhiều thì ít, không lắm lần hay chỉ có một lần cũng lưu bóng dáng, hình hài qua những bước chân. Dẫu vô tình hay cố ý như chim nhạn bay qua Trường Giang vẫn không khỏi in ảnh hình xuôi theo dòng nước lạnh. Người Tù biền biệt theo tháng năm, nhưng hình dáng Người còn lưu lại nơi đâu đó, mang theo những vần thơ của thiên tài lỗi lạc. Thể nghiệm qua cuộc sống, tương quan giữa người với người, đã có những sự liên đới mật thiết, theo tình tự bẩm sinh, theo thói quen bạn bè, theo cách điệu thi nhân, trong cuộc rong chơi nhiều ước hẹn. Người Tù đã gầy dựng và để lại cho mai sau những áng văn chương, thi tứ phiêu diêu, mông lung huyền ảo. Biết bao cảm xúc dạt dào trút đổ dồn dập vào tâm tư, vào tâm tưởng của thi nhân như những đợt sóng của đại dương cuồn cuộn vỗ bờ đã tạo thành cảm hứng, làm nên chất liệu sống thầm lặng nhưng dạt dào, êm đềm nhưng hối hả, đơn sơ nhưng tráng lệ, dịu dàng nhưng hùng tráng thôi thúc thi nhân viết thành những dòng cảm xúc.
Rải rác đó đây, khắp cùng các nẻo đều có mặt thi nhân, có sự tạo dựng và nuôi dưỡng, thừa tiếp một công trình kiến tạo ngàn đời của Người Tù thế kỷ. Những người đồng tâm sự, hay những người đã một thời sát cánh cùng Người Tù rảo khắp các miền:
“Từ núi nọ đến biển im muôn thủa.
Đỉnh núi này và hạt muối đó chưa tan”
để làm chứng nhân cho một thời phiêu bạt.
Bằng mỗi cái nhìn khác nhau, các thi nhân đã viết về Người Tù mỗi khía cạnh chẳng đồng, mỗi góc độ khác biệt, tùy theo những cảm nhận cá biệt.
Triết gia Phạm Công Thiện đã gọi Người Tù là “Anh Hùng Dân Tộc” là “Thiền Sư lỗi lạc nhất, thông minh nhất, uyên bác nhất, và trong sạch nhất của Việt Nam hiện nay.”
Nhà thơ Bùi Giáng lại có vẻ nghệ sĩ hơn, Người Tù “mang một nguồn thơ Việt phi phàm” hay “Một bài thơ “Không Đề” của ông đủ khiến ta khiếp vía mất ăn mất ngủ” mà nêu lên đề nghị: “Đại Sư nên gác bỏ viết sách đi, và làm thơ tiếp nhiều cho, nếu không thì nền thi ca Việt mất đi một nhân tài quá lớn. Chỉ một bài thơ Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết chân trời mới – cũ, Đường Thi Trung Hoa tới siêu thực Tây Phương...”
Ông Nguyễn Minh Cần tuy chưa gặp, nhưng: “Lòng tôi rất xúc động. Nghĩ đến Thầy, nghĩ đến một tài năng của đất nước, một niềm tự hào của trí tuệ Việt Nam, một nhà Phật học uyên bác.”
Học giả Đào Duy Anh trân quý Người Tù như bảo vật: “Thầy là viên ngọc quý của Phật giáo và của Việt Nam.”
Trên đây là những nét chấm phá về Người Tù đã tạo thành bức tranh thủy mặc, lãng đãng những sợi khói mờ, những cây cổ thụ và sườn đá sừng sững, dáng dấp kiêu hùng của bàn tay tạo hóa, hay đôi tay người Mẹ hiền đã nuôi dưỡng Người Tù khôn lớn thành vách tường đồng vững chắc ngăn chặn cuồng phong bão tố. Thi nhân đã hoàn thành những tác phẩm hiến dâng cho đời thưởng ngoạn. Bức tranh ấy là bảo vật cổ quý giá chỉ có những bậc sành điệu mới biết giá trị của nó, mới tâng tiu cất giữ.
Người Tù qua nét bút của các nhà nghệ sĩ tạo dựng nên nhiều hình ảnh đa dạng, cuồng nộ, phóng thể, lập chân tùy theo từng trường phái. Qua cái nhìn của một triết gia thì nét bút thẳng và đứng, hiên ngang và vững mạnh như những cội thông già ngàn năm trên núi tuyết, hứng sương mai, nắng chiều và gió rừng vi vu, rì rào hát với thông những bài tình ca dân tộc, những thiên tình sử quê hương để tô thắm núi rừng, đồng bằng cỏ cây thêm xanh biếc.
Người Tù qua cái nhìn của một nhà thơ, một đại thi hào thì nét bút phóng thể, hưng phấn, phiêu diêu thơ mộng như áng mây vương bồng bềnh trên bầu trời thu, lang thang qua những đồi phong nhuộm màu quan san. Qua những đỉnh núi cao, mặt biển rộng vang rền tiếng sóng. Áng mây trời khi tan khi hợp, linh động nhiệm mầu, hóa thân vào cát bụi để làm cát bụi. Hóa thân vào cỏ nội hoa ngàn để làm bông hoa điểm xuyết đồng cỏ hoang, làm nhựa cây để nuôi cây sống, làm ánh nắng để sưởi ấm muôn loài. Nét vẽ lung linh ảo diệu, khi thực khi hư với nghệ thuật pha màu tuyệt hảo.
Người Tù qua cái nhìn của một nhà văn với nét bút tả chân gãy gọn, bình dị. Nét bút hài hòa, đằm thắm và tươi tắn, tạo nên dáng vẻ dung dị một Người Tù, giữa lớp người kiêu sa hãnh tiến.
Người Tù qua cái nhìn của một học giả thì nét bút trân kỳ, sang cả hiển lộ sự quý phái hiếm hoi, mà những người quyền quý cao sang, vọng tộc, các bậc vương hầu bá tước mới có trong tay. Đó là viên ngọc Kha Nguyệt, viên ngọc Trị Thủy, viên Như Ý Bảo Châu. Là khối kim cương lóng lánh, chặt đứt các vật thể khác. Nhà học giả biết quý trọng các viên ngọc đó. Viên ngọc ẩn mình trong tảng đá ngàn năm trên núi tuyết. Viên ngọc được tồn sinh dưới lòng đại dương sâu thẳm. Người thợ chạm ngọc biết được giá trị của viên bảo ngọc.
Trên đây là một vài ký ức của thi nhân cảm niệm về Người Tù thế kỷ, còn tất cả chỉ là một thoáng qua mành, như làn gió thoảng làm lay động cành sương, như làn hương phảng phất thơm lây, như sợi tơ chiều vương vương trong nắng, rồi tan, rồi tắt lịm.