Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 11: Trách nhiệm toàn cầu

11 Tháng Mười Một 201000:00(Xem: 8333)
Chương 11: Trách nhiệm toàn cầu



Chương 11
TRÁCH NHIỆM TOÀN CẦU


Tôi tin rằng mỗi hành động của chúng ta đều có một chiều phổ quát toàn cầu. Vì thế, giới luật luân lý, hành vi thiện lành, và nhận thức thận trọng là các chất liệu thiết yếu cho một đời sống ý nghĩa, hạnh phúc. Nhưng chúng ta thử quán xét về tầm mức tương quan cùng cộng đồng rộng lớn hơn.

Trong quá khứ, gia đình và các cộng đồng nhỏ chỉ hiện hữu độc lập ít hay nhiều giữa cái này và cái kia. Nếu họ đặt vấn đề an sinh của các đồng loại càng nhiều thì càng tốt. Lại nữa, họ không thể sanh tồn nếu thiếu phối cảnh đó. Trường hợp đó không còn giống như vậy. Hiện thực ngày nay rất phức tạp, và ít ra trên lãnh vực vật chất, thế giới nối liền nhau quá rõ rệt đến độ cần phải có một nhãn quan khác hẳn. Nền kinh tế hiện đại là một trường hợp cao điểm. Thị trường chứng khoán sụp đổ ở phía bên này của địa cầu có thể tạo ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế của các nước phía bên kia. Tương tự, thành quả kỹ thuật trong các sinh hoạt hiện nay lại có một ảnh hưởng tác hại không còn ngờ vực đến môi trường thiên nhiên. Và vấn đề dân số cho thấy chúng ta không thể bỏ quên ích lợi của người khác nữa. Thật thế, chúng ta có quá nhiều sự ràng buộc cho thấy khi phục vụ cho lợi ích của ta cũng tạo lợi ích cho người khác, ngay khi đó không phải là ý định rõ rệt của ta. Thí dụ, khi hai gia đình chia cùng một nguồn nước, phải bảo đảm cho sự không ô nhiễm sẽ làm lợi cho cả đôi bên.

Trên nhãn quan đó, tôi tin điều cốt yếu là chúng ta phải vun bồi một cảm thức mà tôi gọi là trách nhiệm toàn cầu (hay phổ quát). Dùng chữ này không hoàn toàn chính xác như từ ngữ Tây tạng mà tôi có trong đầu, "chi sem", có nghĩa từng chữ là, tâm thức (chi) toàn cầu (sem). Mặc dù khái niệm về trách nhiệm được ngụ ý nhiều hơn là nói rõ rệt trong tiếng Tây tạng, nhưng nó hàm chứa sâu xa trong đó. Khi tôi nói đặt căn bản trên sự quan tâm đến an sinh tha nhân hầu có thể phát triển một cảm thức trách nhiệm toàn cầu, tôi không ngụ ý đề xướng mỗi cá nhân phải chịu trách nhiệm trực tiếp đến, chẳng hạn như, chiến tranh hay nạn đói kém ở nhiều nơi trên thế giới. Nhưng trong thật hành Phật giáo, chúng tôi thường tự nhắc nhở mình về bổn phận phải phục vụ cho toàn thể chúng sanh trong vũ trụ. Tương tự, các người hữu thần tin là phụng vụ cho Thượng đế sẽ kéo theo phụng vụ cho an sinh của tất cả con cái Ngài. Nhưng có vài điều hiển nhiên, như là sự nghèo đói của một làng nhỏ cách xa vạn dặm, xem như hoàn toàn vượt phạm vi của một cá nhân. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không phải là nhìn nhận lỗi lầm, mà một lần nữa, là một sự tái định hướng tâm và trí vượt khỏi cái ngã đến hướng đến tha nhân. Phát triển được một cảm thức trách nhiệm toàn cầu — của tầm kích toàn cầu trong mỗi hành động của ta và của quyền bình đẳng giữa mọi người trong hạnh phúc và tránh đau khổ — là phát triển một thái độ của tâm, sao cho mỗi khi nhìn thấy bất cứ cơ hội nào lợi lạc cho tha nhân, ta sẽ nắm lấy, thay vì chỉ chú trọng hạn hẹp vào lợi ích bản thân. Nhưng, dĩ nhiên, vì chúng ta còn phải quan tâm đến cả những gì ngoài phạm vi của mình, do đó, cần chấp nhận nó như là thành phần của thiên nhiên, và quan tâm đến việc làm nào lợi lạc nhất có thể được.

Một ích lợi quan trọng trong sự phát triển cảm thức về trách nhiệm toàn cầu chính là giúp chúng ta trở nên nhạy cảm đối với tất cả — không phải chỉ riêng với những người thân cận. Chúng ta sẽ thấy nhu cầu phải chăm sóc đặc biệt cho những thành phần của gia đình nhân loại chịu nhiều đau khổ nhất. Chúng ta nhận ra nhu cầu phải tránh gây chia rẽ giữa đồng loại. Và chúng ta ý thức được tầm quan trọng vượt bực của sự hài lòng do tri túc.

Khi bỏ quên an sinh tha nhân và không biết đến tầm kích toàn cầu trong hành động của mình, điều khó tránh là chúng ta sẽ thấy các lợi ích của mình dường như cách biệt cùng của họ. Chúng ta sẽ đánh mất sự hợp nhất nền tảng trong gia đình nhân loại. Dĩ nhiên, rất dễ nêu ra vô số yếu tố đi ngược lại khái niệm hợp nhất này. Trong đó kể cả sự khác biệt tín ngưỡng, ngôn ngữ, phong tục, văn hóa, vân vân. Nhưng khi nhấn mạnh quá nhiều đến các khác biệt giả tạo đó, ngay cho dù các sự phân biệt nhỏ nhặt, cứng nhắc, chúng ta cũng không tránh khỏi mang thêm đau khổ đến cho chính mình và người khác. Điều đó thật vô nghĩa. Loài người chúng ta đã chịu quá nhiều khó khăn. Chúng ta phải đối diện cùng cái chết, tuổi già, và bệnh hoạn — không kể việc gặp phải bất mãn. Đó là các thứ chúng ta không sao tránh khỏi. Bấy nhiêu đó chưa đủ sao? Tại sao còn phải tạo nhiều thứ vấn đề không cần thiết chỉ đặt căn bản trên các khác biệt tư tưởng hoặc màu da?

Khi thẩm định các hiện trạng đó, chúng ta thấy cả hai, luân lý lẫn nhu cầu, đều cần một thứ giải pháp. Nhằm vượt qua khuynh hướng bỏ quên yêu cầuích lợi của người khác, chúng ta phải thường xuyên tự nhắc nhở mình về một điều rất hiển nhiên: đó là trên bản chất, chúng ta đều như nhau. Tôi đến từ Tây tạng; đa số độc giả quyển sách này không phải là người Tây tạng. Nếu tôi được gặp riêng từng độc giả và nhìn kỹ họ, tôi chắc hẳn sẽ thấy phần đông quả có các đặc điểm khác tôi ở ngoài mặt. Nếu tôi tập trung vào các điểm khác biệt đó, sẽ làm chúng trở thành điều gì quan trọng. Nhưng kết quả sẽ làm cho chúng ta xa nhau hơn là gần nhau.

Nếu, mặt khác, tôi lại nhìn mỗi người như cùng một giống với tôi — giống người với một cái mũi hai con mắt vân vân, bỏ qua sự khác biệt của hình tướng và màu sắc — thì tự động sẽ thấy cảm thức cách biệt đó phai nhạt đi. Tôi sẽ thấy rằng tất cả chúng ta đều có cùng thứ thịt da của con người, và hơn nữa, người khác cũng như tôi, đều muốn hạnh phúc và tránh đau khổ. Trên căn bản của nhận thức đó, tôi cảm thấy xu hướng tự nhiên về họ. Và mối quan tâm đến sự an sinh của họ cũng tự động khơi dậy trong tôi.

Tuy thế, dù rằng hầu hết mọi người đều muốn chấp nhận nhu cầu hợp nhất trong nhóm riêng của họ, và trong đó, sự cần thiết quan tâm đến an sinh cho người khác, họ vẫn có khuynh hướng lãng quên phần còn lại của nhân loại. Làm như vậy, chúng ta bỏ quên không phải chỉ có bản chất tùy thuộc của thực tại, mà còn cả hiện thực của trường hợp riêng. Nếu một nhóm người, một chủng tộc, hoặc một dân tộc, có thể đạt hoàn toàn sự thỏa mãntrọn vẹn hoàn toàn tự lập và không tùy thuộc chỉ trong hạn định của xã hội mình, thì có thể lý luận rằng, sự phân biệt cùng các người bên ngoài có thể đúng. Nhưng đây lại không phải thế. Thật vậy, thế giới tân tiến ngày nay được thiết lập trên phương thức các ích lợi của một cộng đồng riêng biệt nào đó không thể còn có thể nằm trong giới hạn của các biên giới cõi bờ.

Vun bồi sự hài lòng như thế chính là điều thiết yếu hầu bảo tồn việc chung sống hòa bình. Sự không hài lòng nảy sanh ra việc muốn chiếm hữu, vốn chẳng bao giờ được thỏa mãn. Nếu điều con người tìm vốn có bản chất vô hạn định, như phẩm chất về lòng khoan dung chẳng hạn, thì vấn đề sự hài lòng không cần đề ra. Khi chúng ta càng gia tăng khả năng khoan dung, thì chúng ta lại càng khoan dung. Đối với các phẩm chất tâm linh, hài lòng không cần thiết mà cũng không được mong muốn. Nhưng nếu điều ta tìm có hạn định, thì sẽ có nguy cơ là một khi đạt được nó, ta lại sẽ không hài lòng.

Trong trường hợp một người muốn giàu có, ngay dù người đó có thể nắm trọn guồng máy kinh tế cả nước trong tay, cũng có thể bắt đầu nghĩ đến việc xâm chiếm nền kinh tế của nước khác. Tham muốn có hạn định này không bao giờ có thể thỏa mãn. Mặt khác, khi phát huy được sự hài lòng, chúng tathể không bao giờ bị mất hy vọng hoặc mất ảo vọng.

Thiếu sự hài lòng — sẽ đi dần vào tham lam — là gieo trồng các hạt giống của đố kỵtranh chấp, và đưa đến một nền văn hóa vật chất cực đoan. Không khí tiêu cực tạo dựng trở thành một khuôn khổ cho mọi thứ bệnh hoạn xã hội sẽ mang đến đau khổ cho mọi người trong cộng đồng. Nếu đây là trường hợp tham lam và đố ky không có phản ứng ngược, thì vấn đề chỉ diễn ra trong cộng đồng này. Nhưng, thường thì không phải như thế. Đặc biệt, thiếu sự hài lòng là một nguồn gây tổn hại đến môi trường thiên nhiên, và do đó, gây thiệt hại đến người khác. Người khác nào? Đặc biệt là kẻ nghèo và kẻ yếu. Trong cộng đồng riêng của họ, người giàu mạnh có thể bỏ đi nơi khác để tránh, nạn ô nhiễm cao độ chẳng hạn, còn người nghèo yếu không có sự lựa chọn.

Tương tự, người dân trong các xứ nghèo, không có nguồn tài nguyên để sử dụng, còn phải chịu đựng cả sự quá đáng của các nước giàu và nạn ô nhiễm từ kỹ thuật thô thiển của chính mình. Các thế hệ sắp đến cũng phải lãnh chịu đau khổ đó. Và dần dà mọi người chúng ta đều phải đau khổ. Bằng cách nào? Chúng ta sống trong một thế giới do ta góp phần tạo dựng. Nếu ta không chọn sự cải thiện hành động của mình trong sự tương kính bình quyền hưởng hạnh phúc và tránh đau khổ cho tha nhân, thì chẳng bao lâu ta sẽ thấy các hậu quả tiêu cực. Thử tưởng tượng nạn ô nhiễm do hơn hai tỷ chiếc xe thêm vào. Nó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể chúng ta. Như thế, hài lòng tri túc không phải chỉ là một vấn đề luân lý. Nếu chúng ta không muốn gia tăng kinh nghiệm đau khổ của chính mình, thì đây là một vấn đề khẩn thiết.

Đó là một trong các lý do khiến tôi tin rằng sự bành trướng không giới hạn của nền kinh tế cần phải đặt vấn đề. Theo quan điểm của tôi, nó chỉ tạo thêm nhiều sự bất hòa, kéo theo rất nhiều vấn đề, cả xã hội lẫn môi sinh. Còn có cả sự kiện là trong khi tận hiến trọn vẹn cho sự phát triển vật chất, chúng ta sẽ bỏ quên sự thực thi phổ quát lên trọn cộng đồng rộng lớn. Lại nữa, điều này không phải chỉ là vấn đề hố cách biệt giữa Thế giới thứ Nhất và thứ Ba, giữa miền Bắc và miền Nam, giữa xứ tiền tiến và chậm tiến, giữa giàu và nghèo, giữa vô đạo đức và sai quấy. Đây là vấn đề của cả hai phía. Nhưng ý nghĩa nhất chính là sự kiện bất bình đẳng này tự nó là nguồn khởi loạn đối với tất cả mọi người. Trong ý nghĩ đó, thử đơn cử một thí dụ, Âu châu là toàn thế giới, chứ không phải chỉ là nơi cư ngụ của khoảng dưới mười phần trăm dân số thế giới, từ cơ sở đó, lý tưởng vượt trội của một sự tiến bộ không ngừng còn có thể biện luận hữu lý. Tuy nhiên thế giới không phải chỉ có Âu châu. Hiện trạng là có rất nhiều người đang đói khát ở khắp các nơi khác. Và sự bất quân bình sâu xa như thế, một phần do hậu quả tiêu cực của đủ các thứ, cho dù không phải là trực tiếp: người giàu có cũng cảm nhận triệu chứng nghèo thiếu trong đời sống hàng ngày của mình. Thử xét xem, các máy thu hình lén đặt khắp nơi, các hàng rào an toàn trên khung cửa sổ, tất cả cho thấy người giàu thiếu thốn cảm giác an bìnhan toàn.

Trách nhiệm toàn cầu còn đưa chúng ta đến sự bảo toàn nguyên tắc chân thật. Tôi muốn ngụ ý gì? Chúng ta có thể nghĩ đến sự chân thật và thiếu chân thật trong khuôn khổ mối tương quan giữa bề ngoàithực tế. Đôi khi chúng có vẻ như tương hợp với nhau, nhưng thường thì không. Khi chúng tương hợp, có thể xem là chân thật, theo như tôi hiểu. Như thế chúng ta chân thật khi các hành động của ta đúng như bề ngoài chúng thể hiện. Khi chúng ta giả dạng như thứ này, nhưng trên thực tế chúng ta lại là thứ khác, người khác sẽ phát khởi nghi ngờ, e sợ. Và e sợ là điều tất cả mọi người cần tránh. Đảo lại, nếu trong cách xử thế cùng mọi người chung quanh, ta cởi mở và thành thật trong bất cứ điều gì nói và nghĩ và làm, mọi người không cần phải sợ ta. Điều này đúng cho cả cá nhân lẫn cộng đồng. Hơn nữa, khi hiểu được giá trị của sự chân thật trong mọi thể hiện, chúng ta sẽ nhận ra không có sự khác biệt tối hậu giữa nhu cầu của cá nhân và nhu cầu của toàn cộng đồng. Các con số tuy có khác nhau, nhưng sự mong ước và quyền không muốn thất vọng của họ đều như nhau. Như thế, khi tận tâm bảo toàn sự chân thật, chúng ta giảm thiểu được mức hiểu lầm, nghi ngờsợ hãi của xã hội. Bằng một cách nhỏ nhặt nhưng ý nghĩa, chúng ta tạo điều kiện cho một thế giới hạnh phúc.

Vấn đề công lý liên hệ mật thiết với cả trách nhiệm toàn cầu lẫn vấn đề chân thật. Công lý kéo theo sự đòi hỏi phải hành động khi nhận thức được sự bất công. Thật vậy, thất bại trong hành động đó có thể sai quấy, tuy rằng không sai trong cảm thức là ta xấu từ bản chất. Nhưng nếu ta ngần ngại nói lên sự công bằng, chỉ vì một cảm thức quy ngã nào đó, đó lại là một vấn đề. Nếu phản ứng của ta trước sự bất công là đặt câu hỏi, "Việc gì sẽ xảy đến cho tôi nếu tôi nói lên? Có thể người ta sẽ không ưa tôi," thì điều đó vốn vô luân, vì chúng ta đã bỏ qua sự liên hệ rộng lớn từ sự im lặng của mình. Cũng chẳng thích đángích lợi khi đưa vào khuôn khổ của sự bình quyền của tất cả trước hạnh phúc và tránh đau khổ.

Điều này cũng đúng ngay khi, lấy thí dụ, chính quyền hoặc cơ chế phán rằng, "Đây là việc của chúng tôi" hoặc "Đây là việc nội bộ." Không những chúng ta có bổn phận phải nói lên trong các trường hợp như thế, mà quan trọng hơn nữa, đó là một phục vụ cho tha nhân.

Đương nhiên, có thể phản đối rằng, một sự chân thật như thế không phải lúc nào cũng khả thi, và chúng ta cần phải "thực tế." Hoàn cảnh của chúng ta có thể ngăn ngừa hành động theo đúng với trách nhiệm. Chẳng hạn như, gia đình riêng của ta có thể bị hại, nếu ta nói lên khi chứng kiến cảnh bất công. Nhưng trong khi ta phải đảm đang cùng hiện thực trong đời sống hàng ngày, điều cốt yếu là phải giữ một tầm nhìn rộng lớn. Chúng ta phải thẩm định các nhu cầu của mình theo tương quan cùng với nhu cầu của người khác; và phán đoán về hành động hoặc không hành động của mình sẽ ảnh hưởng ra sao cho họ trong dài hạn. Rất khó chỉ trích những người lo lắng cho các người thân của họ. Nhưng đôi khi cần phải chịu hy sinh vì lợi ích của một cộng đồng rộng lớn hơn.

Cảm thức trách nhiệm đối với tất cả mọi người nghĩa là, vừa như các cá nhân và một tập thể các cá nhân, chúng ta có bổn phận phải chăm sóc đến mỗi thành phần trong xã hội của mình. Điều đó không quan hệ thật sự đến khả năng vật lý hoặc tinh thần của họ. Cũng giống như ta, những người đó có quyền hạnh phúc và tránh đau khổ. Chúng ta phải tránh, bằng mọi giá, sự thôi thúc bỏ rơi các kẻ quá phiền não, xem họ như gánh nặng. Các người bệnh hoạn hay bên ngoài lề cũng cần được đối xử như vậy. Đẩy họ ra ngoài tức là tạo đau khổ chồng chất thêm. Nếu chúng ta ở trong các điều kiện đó, cũng chỉ mong được người khác giúp đỡ. Do đó, chúng ta cần phải đảm bảo người bệnh hoạnphiền não không bao giờ cảm thấy bị bỏ quên, không được giúp đỡ hoặc bảo vệ. Thật vậy, lòng ưu ái dành cho các người đó, theo ý tôi, là thước đo sức khỏe tâm linh của ta, cả ở mức độ cá nhân lẫn xã hội.

Tôi có vẻ như quá sức lý tưởng trong bài nói chuyện về trách nhiệm toàn cầu này. Tuy nhiên, đó là một ý tưởng tôi từng trình bày trước công luận từ chuyến thăm viếng Tây phương lần đầu tiên của tôi, vào năm 1973. Vào những ngày đó, nhiều người còn nghi ngờ về các khái niệm này. Tương tự, đến nay cũng không phải dễ khiến mọi người thích thú về khái niệm hòa bình thế giới. Tuy nhiên, tôi rất được khích lệ khi ghi nhận rằng ngày hôm nay, một con số gia tăng đang bắt đầu phản ứng rất thuận lợi cho các ý tưởng đó.

Như kết quả từ rất nhiều sự kiện phi thườngnhân loại kinh nghiệm trong thế kỷ hai mươi, chúng ta đã trở nên chín chắn hơn. Vào thập niên năm mươi và sáu mươi, và ngay cả ở vài nơi gần đây, nhiều người cảm thấy các xung đột cuối cùng chỉ có thể giải quyết qua chiến tranh. Ngày nay, sự suy tưởng đó chỉ còn dấy động trong lòng một thiểu số. Và cho dù trong tiền bán thế kỷ này, nhiều người còn tin tưởng rằng tiến bộ và phát triển trong xã hội phải được theo đuổi qua các chế độ cứng rắn, sự sụp đổ của phát xít, tiếp theo là sự tan biến của cái gọi là Bức Màn Sắt, đã cho thấy đó là một thứ nghiệp vụ vô vọng. Tưởng cần ghi nhận rằng, bài học từ lịch sử cho thấy, dùng bạo lực áp chế trật tự chỉ có thể tồn tại trong đoản kỳ. Hơn nữa, sự thỏa hiệp (ngay cả trong số các Phật tử) rằng khoa học và tâm linh không thể hòa hợp, đã trở thành một điều không còn đứng vững. Ngày nay, khi kiến thức khoa học về bản chất của thực tại càng sâu xa hơn, thì nhận thức đó đã thay đổi. Vì vậy, người ta bắt đầu biểu lộ nhiều thích thú về thứ mà tôi đã gọi là thế giới nội tại. Tôi muốn nói đến các động lực và tác năng của tâm thức, hoặc tinh thần: tâm và trí của chúng ta. Lại có một sự gia tăng trên toàn cầu của ý thức về môi sinh, và sự nhận biết rằng không phải chỉ có các cá nhân hoặc ngay cả trọn một quốc gia là có thể tự giải quyết lấy các vấn đề của chính mình, mà chúng ta ai ai cũng cần đến nhau. Đối với tôi, tất cả điều đó là những tiến triển đầy khích lệ, chắc chắn sẽ đưa đến các kết quả trường kỳ. Tôi cũng được khích lệ bởi sự kiện của nhu cầu tìm các giải pháp bất bạo động cho các xung đột, nhằm đưa ra tinh thần hòa giải mới. Còn một điều, như chúng ta đã từng ghi nhận, là sự chấp nhận gia tăng về tánh cách toàn cầu của nhân quyền, và nhu cầu nhìn nhận sự đa dạng trong các lãnh vực quan trọng chung, như là các vấn đề tôn giáo. Điều này tôi tin đã phản ánh được sự nhìn nhận nhu cầu về một phối cảnh rộng lớn hơn, hầu đáp ứng sự đa dạng của chính gia đình nhân loại. Như một kết quả, mặc dù quá nhiều đau khổ vẫn tiếp tục nhiễu hại các cá nhân và các dân tộc trên thế giới dưới các danh xưng là lý tưởng, hoặc tôn giáo, hoặc tiến bộ, hoặc kinh tế, nhưng một cảm thức hy vọng mới đã vươn lên cho những người bị áp bức chà đạp. Mặc dù chắc chắn rất khó mang lại hòa bình và hòa hợp thật sự, nhưng rõ rệt là sẽ đi đến. Tiềm năng đã hiển lộ. Và nền tảng là cảm thức trách nhiệm của từng mỗi cá nhân đối với tất cả người khác.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34464)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16906)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 23033)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13090)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 22038)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22300)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14909)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23673)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24211)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23767)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17192)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19404)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27153)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14463)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13878)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22756)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14811)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17409)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12717)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13914)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10450)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14753)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17238)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12592)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12769)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10403)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28766)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10759)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11180)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16928)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15823)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13372)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12602)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11410)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13073)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19362)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12302)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28718)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10091)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21646)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12832)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17876)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26367)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11749)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10890)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22838)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12092)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10643)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11442)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11567)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant