Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Tâm lành quả tốt

23 Tháng Mười 201200:00(Xem: 5979)
12. Tâm lành quả tốt

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Tâm lành quả tốt

Thuở xưa, đã lâu xưa quá rồi, thuở Đức Phật Ca-diếp còn tại thế, ở một thôn làng ven chân núi Tuyết có hai vợ chồng làm nghề kiếm củi độ nhật.

Họ nghèo, nghèo lắm. Tuy nghèo nhưng họ vẫn sống đời đức độ hiền lương. Hiếm nỗi, đã lớn tuổi mà không con nên hai vợ chồng thường nhìn nhau thở vắn than dài.

Hôm kia đi qua làng một đạo sĩ xin ăn. Do nhân duyên tiền kiếp xa xăm nên hai vợ chồng phát tâm để bát cúng dường.

Vị đạo sĩ sau khi nhận vật thực, nói lời chúc phúc:

- Các người hãy ghi dạ: “Tâm lành, quả tốt”. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.

Hai vợ chồng thành kính nói:

- Chúng tôi đã lớn tuổi mà chưa con. Xin đạo nhân ban cho lời chỉ dạy.

Vị đạo sĩ nhìn hai vợ chồng một hồi rồi ôm bát, chống gậy bước đi, nói vọng lại:

- Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc lành. Hãy tạo các công đức.

Từ đó, nhớ lời dạy bảo của vị đạo sĩ, hai vợ chồng người tiều phu chí thú làm ăn và tích cực giúp đỡ mọi người. Ai bệnh hoạn họ săn sóc thuốc men. Ai lỡ đường họ cho ở trọ. Họ nhường cơm sẻ áo cho những kẻ cơ hàn. Họ đùm bọc, an ủi những người cô quả, già nua. Thấy con vật bị thương họ ân cần băng bó, vuốt ve. Họ sưởi ấm cho cả những cánh chim khi đông về giá lạnh.

Không bao lâu sau, mối thiện tâmlòng từ ái của hai người đã lớn rộng bao trùm cả một vùng. Người và vật thảy thảy được tắm mát trong dòng suối từ vô hạn của họ. Suốt mùa xuân, mùa hạ, chim chóc các nơi tìm về đậu đầy cây, đầy nhà với những tiếng hót líu lo, ríu rít tưởng như bất tận. Các lũ nai, khỉ, vượn, thỏ, sóc... con đứng, con ngồi, con nằm, con chuyền nhau chơi trên cành reo vui thoải mái.

Chẳng có nơi nào bình yên, hạnh phúc, an lạc bằng nơi góc rừng bé nhỏ xinh xinh bên chân núi Tuyết của hai vợ chồng tiều phu nhân đức.

Năm sau, người vợ nghe tin mừng mình đã đậu thai. Người chồng hoan hỷ, sung sướng, lại tích cực thêm trong các công đức như xây cầu, đắp đường, bố thí... Trong thời gian này thì đời sống họ đã no đủ lắm rồi. Có thể họ không cần làm mà vẫn có ăn nhờ công đức trước đây họ đã ban bố cho mọi người. Biết bao là thứ ngon vật lạ mà kẻ này người kia biếu xén. Biết bao trái cây ngon ngọt bổ dưỡng mà khỉ vượn mang từ rừng sâu về. Chẳng những thế, loại thú rừng hiền lành này lại có thể đỡ đần các công việc chân tay giúp hai vợ chồng nữa.

Đến ngày mãn nhụy khai hoa, ra đời một lúc ba trẻ khôi ngô tuấn tú, giống nhau như ba giọt nước. Cả ba rỡ rỡ như châu ngọc, đẹp đẽ như thiên tử nhà trời. Hai vợ chồng làm lễ tạ ơn thần thánh. Nỗi mừng biết lấy chi cân?

Năm sau, vừa chẵn thôi nôi, vị đạoxin ăn năm xưa trở lại. Hai vợ chồng lại hớn hở để bát cúng dường, với khuôn mặt rạng rỡ, trình bày là đã thỏa nguyện ước năm xưa.

Quanh nhà, trên cây cối, chim chóc thi nhau hót vang rân; nào thỏ, nào sóc đổ xô chạy lại bên đạo sĩ ve vẫy đuôi mừng rỡ. Ba con vượn lớn trân trọng bồng ba trẻ ra mắt đạo sĩ nghèo nàn.

 Vị đạo sĩ gật gật đầu rồi mỉm cười nói:

- Tâm lành quả tốt, đúng vậy không sai! Tâm lành quả tốt, mình đã nhờ nương mà tất cả sinh chúng cũng được nhờ nương.

Hai vợ chồng kính cẩn cúi đầu.

Vị đạo sĩ tiếp:

- Vì nhân duyên hội ngộ năm xưa nên giờ đây bần đạo sẽ đặt tên cho ba trẻ.

Rồi ngài ngửng đầu nhìn trời:

- Bần đạo là một Sa-môn không cửa, không nhà, đang bốn phương lê gót lang thang khổ hạnh để tìm cho ra đạo lớn hầu cứu độ cho muôn loại chúng sanh đang đau khổ. Ba trẻ ra đời trong lúc này đúng là kẻ hữu duyên. Đúng là do nhân duyên sâu dày trong quá khứ. Ồ! Bần đạo thấy rõ chúng rồi. Vậy bần đạo đặt tên cho ba trẻ theo thứ tự là: Trí Lợi, Ý Lợi và Tâm Lợi.

Nói xong câu nói hàm nghĩa sâu xa, chăm chú nhìn ba trẻ một hồi rồi đạo sĩ cất chân từ giã...

Quang âm thấm thoắt, ngày tháng thoi đưa, ba trẻ giờ đã lớn.

Trí Lợi là anh, bất cứ công việc gì cũng tỏ ra thông minh, khôn ngoan, sáng suốt. Ý Lợi là em kế, là một trẻ đầy ý chí, cương nghị, dõng lực. Cùng với Trí Lợi, Ý Lợi giúp cha mẹ làm tất cả các công việc về rẫy bái, ruộng vườn. Ngoài ra, họ còn vào rừng sâu làm gỗ, tìm trầm. Đối với cả hai, chỉ có thành công, thạnh lợi chớ không có thất bại, thối giảm. Nhờ vậy, chẳng bao lâu, nhà cửa, điền trang đều được mở rộng, một đời sống hạnh phúc ấm no đã đến với gia đình.

Riêng Tâm Lợi thì hiền lành đến nhu nhược. Về “trí”, về “ý”, Tâm Lợi không bằng được hai anh nhưng về “tâm” lại tràn trề lai láng. Chàng thương người, thương vật đến quên ăn bỏ ngủ... Chỉ có thế thôi. Còn các công việc khác thì vụng về, chậm chạp. Hai vợ chồng thường ái ngại nhìn nhau thở ngắn, than dài:

- Thương người, thương vật mà đến độ như nó thì vợ chồng mình cũng không bằng được. Nhưng vụng về trong mọi công việc thế kia thì e rằng trong tương lai nó sẽ khổ thôi.

Thời gian sau, người chồng qua đời. Và cũng không lâu, đến phiên người vợ. Trước giờ lâm tử, bà kêu ba con đến mà dạy rằng:

 - “Tâm lành quả tốt”. Cha mẹ chỉ nhờ học thuộc bốn chữ đó do lời dạy bảo của một vị đạo sĩ mà thành người, nhà cửa yên ấm và đồng thời sinh hạ được ba con. Mẹ vĩnh biệt các con trong lúc các con chưa nên gia thất, đó là điều hối tiếc nhỏ; nhưng các con đều đã khôn lớn, sống thuận hòa, thương yêu nhau như thế này lại là niềm vui to lớn hơn. Mẹ chẳng còn ao ước gì nữa cả. Gia sản để lại cho các con thì hãy cùng nhau gìn giữ, bảo bọc, chí thú làm ăn. Hãy bố thí, mở rộng lòng từ, thương yêu người và vật.

Câu nói cuối cùng, người mẹ thều thào:

- Hãy chiếu cố đến em!

Sau khi cha mẹ đã mồ yên mã ấm, Trí Lợi bàn với Ý Lợi rằng:

- Em ta vụng về, chậm chạp không biết làm ăn. Nếu toàn bộ gia sản này mà hai ta đồng nhượng lại thì em ta có thể sống trọn đời và làm các công đức. Hai ta đều có “trí” và có “ý” thì hãy chia tay nhau đến những phương trời xa để làm ăn. “Tâm lành quả tốt” thì lo gì chúng ta không nở mặt nở mày trong mai hậu.

Bàn thế xong, Trí Lợi và Ý Lợi mỗi người chỉ mang theo tiền lộ phí, để thư lại cho em, không từ giã, bí mật lên đường, hẹn ba năm sau sẽ trở lại quê nhà...

Trên đường lưu lạc tha phương, băng đèo lội suối, khát thì uống nước sông, đói thì ăn trái cây rừng. Hôm kia, Ý Lợi đi đến một thành phố miền biển.

Chàng luôn tâm niệm lời cha mẹ dạy:

- “Tâm lành, quả tốt. Hãy làm các việc thiện, hãy làm các công đức.”

Không biết là bao nhiêu việc lành chàng đã làm được trên đường đi. Đẩy giúp một chiếc xe bò đang ì ạch kéo dốc. Gánh một gánh củi nặng cho một cụ già. Gỡ một con thú bị thợ săn sập bẫy. Băng vết thương cho một chú nai con. Khuân đá sửa lại một đoạn đường bị nước lũ. Cho vật thực đang ăn đến một kẻ đói. Vớt một ổ kiến đang bị trôi trên khe... Ban đầu, làm những công việc này dường như là chàng noi gương cha mẹ. Sau rốt, chàng cảm thấy mình tình nguyện làm, làm một cách hoan hỷ, làm một cách tự nhiên. Quả thật chàng đã đạt đươc lạc thú khi làm các công đức.

Ngày kia, chàng đứng quan sát phu khiêng các bao hàng nặng từ thuyền to xuống. Có một cụ già đi sau cùng, dường như đôi chân đã run run dưới bao hàng quá lớn. Chàng đến vác giúp. Thấy một chị phụ nữ vóc người quá mảnh mai, chàng lại đến phụ một vai. Thế là suốt một ngày, chàng đứng đó, hết khiêng cho người này một đoạn lại khiêng giúp cho người khác một đổi. Chàng không tỏ vẻ mệt nhọc, mà khuôn mặt vốn đã đẹp như thiên thần lại càng rạng rỡ hơn lên vì hoan hỷ. Mọi người cảm kích nhìn chàng, chàng gật đầu đáp trả lại bằng một nụ cười hồn nhiên như con trẻ. Người ta bắt đầu bàn tán về anh chàng thanh niên đẹp trai kỳ dị.

Ngày hôm sau, Ý Lợi lại đến chỗ tàu cũ và tiếp nối công việc của mình. Cuối ngày, người ta vây lại, hỏi chàng từ đâu đến và đến đây có việc gì? Chàng thành thật trả lời, sau đó mỉm cười kết luận rằng:

Dầu chưa có công viêc gì để tự nuôi sống bản thân, nhưng không phải vì vậy mà không thể giúp được cái gì đó cho mọi người xung quanh. Tâm lành thì quả tốt mà. Mẹ tôi đã từng dạy như vậy.

Chuyện đến tai ông chủ, được kêu đến hỏi và chàng cũng chỉ trả lời được có bấy nhiêu với nụ cười rất dễ mến. Thế là chàng được vào làm việc với cái nhìn thiện cảm của ông chủ và của nhiều người khác. Chỉ mấy tháng sau, sự tài năng, tháo vác, lương thiệnlòng từ tâm, hỷ tâm của chàng làm cho ông chủ yêu thương lạ lùng. Chàng được làm cai coi sóc một trăm phu khiêng ở bến tàu. Thế là chàng cảm thấy trách nhiệm của mình nên đã làm việc một cách hăng say, nhiệt huyết và đầy thiện chí. Chẳng bao lâu, khắp cả bến tàu, không ai là không biết tên chàng, mang ơn chàng và thương yêu chàng. Từ giọng nói, dáng đi, cử chỉ, nụ cười của chàng dường như ban rải cho người ta niềm tin yêu và năng lượng thanh bình, an lạc. Ông chủ “ghiền” chàng. Phu khiêng “mến yêu” chàng. Trẻ em “mê” chàng. Và con gái thì “tương tư” chàng.

Năm thứ hai, ông chủ gã cho chàng một lúc hai cô tiểu thư yêu quý cùng một chiếc tàu lớn làm của hồi môn. Chàng lại đi buôn muối và trao đổi hàng hoá, vải vóc lẫn những thổ sản đó đây khắp các thành phố miền duyên hải. Người ta lại rủ chàng tìm ngọc trai và buôn bán ngọc trai. Đối với chàng, chưa bao giờ nghe đến hai chữ thất bại nên cuối năm, trong tay chàng đã có đến hàng trăm ngàn đồng tiền vàng.

Ông chủ mất, chàng được kế thừa một gia sản lớn cùng mấy chục chiếc tàu buôn. Chưa dừng lại ở đó, chàng còn tậu một trăm con lạc đà để thồ và vận chuyển hàng hoá giao thương với các nước vùng sa mạc tây bắc...

Thế là Ý Lợi đã trở thành một tay “Phú gia địch quốc” trong chưa đầy ba năm áp dụng bí quyết gia truyền: Tâm lành quả tốt – theo như lời trăn trối của mẹ.

Hôm kia, chàng bồi hồi nhớ lại lời ước hẹn cũ với anh và em, Ý Lợi chuẩn bị một cuộc trùng phùng huynh đệ suốt ba năm xa cách nhớ nhung.

“- Chẳng biết anh và em ta giờ ra sao?”

Trí Lợi lang thang vất vưởng đến một tiểu quốc. Trên đường, chàng cũng tâm tâm niệm niệm lời cha mẹ dạy. Cũng như Ý Lợi, chàng cũng đã làm vô lượng công đức trên đường đi.

Một buổi chiều, chàng lạc vào một kinh thành hoa lệ, phố phường rộn rịp, đèn treo hoa kết như sao sa. Đây một nhóm người đang sơn quét. Kia một nhóm người đang làm đường. Một nhóm khác đang chưng bày bàn trầm hương hoa bái vọng.

“- Đâu cần thì ta có, đâu khó thì ta làm.”

 Nghĩ thế, chẳng biết quen hay lạ, chàng hăm hở lao vào giúp mọi người. Việc khó, chàng giúp ý kiến cho trở thành dễ. Việc nặng, chàng giúp ý kiến cho trở thành nhẹ. Chàng hăng hái bắt tay làm với sự thông minh, sáng dạ của mình.

Người ta đưa mắt ngạc nhiên nhìn chàng thanh niên đẹp trai lạ mặt. Chẳng mấy chốc, tiếng đồn lan xa rồi các vị bô lão đến xin chàng ý kiến về cách thức bài trí phố phường như thế nào để đón tiếp một vị Phật.

- Một vị Phật? Chàng ngạc nhiên hỏi lại.

Một vị trưởng lão cặn kẽ giải thích:

- Phải rồi. Ngài, đầu tiên là một Sa-môn không cửa, không nhà. Sau, Ngài đã giác ngộ chân lý cao cả và huy hoàng của đời sống. Và bây giờ, Ngài đang lê gót khất sĩ khắp vạn nẻo đường để cứu độ chúng sanh.

Trong tâm Trí Lợi chợt hiện ra hình ảnh của vị Sa-môn năm xưa qua lời thuật lại của cha mẹ chàng. Đúng rồi! Chính là Ngài! Vị đạotình nguyện sống đời bần hàn xin ăn đó đây với đại nguyên tìm cho ra phương thuốc cứu độ chúng sanh. Vậy thì phải rồi: Tâm lành quả tốt!

Nghĩ thế xong, chàng nói:

- Đối với một vị Phật, bậc Vô Thượng như vậy thì không có hình thức đón tiếp nào cho xứng đáng được cả. Mọi hình thức đều cần thiết, nhưng cái quan trọng hơn là: Tâm lành quả tốt – tâm dẫn đầu, tâm sinh ra mọi nghi lễ, hình thức. Các vị tiền bối hãy như vậy thọ trì.

Chàng chỉ nói thế, không trả lời thêm, dẫu được hỏi. Vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết cũng không hiểu bèn cùng nhau cử người đại diện đi vào nội thành.

Tiểu quốc này là Đạt Xa, Quốc vương tên là Bố Đức. Dẫu là nước nhỏ nhưng thạnh mậu và phú cường do nhờ đức liêm khiết, lòng nhân hậu của đức vua cũng như bá tánh. Hôm kia, đức vua nghe tin tại Hy Mã Lạp Sơn đã xuất hiên một vị Phật, một bậc Toàn Giác, một đấng Siêu Nhân. Ngài đã lần lượt hàng phục chúng ma suốt cả mấy trăm tiểu quốc dọc theo thung lũng sông Hằng. Và, hiện giờ, Ngài và Tăng Chúng trên mười ngàn vị đang du hành qua xứ sở này. Hoan hỷ và kỉnh mộ xiết bao, đức vua cho họp triều thần lại, cử người tức tốc dùng khoái mã đến quỳ phục bên chân Đức Thế Tôn thỉnh mời Ngài và Tăng Chúng bi mẫn quang lâm hoá độ Đạt Xa.

Đức Thế Tôn im lặng nhân lời.

Công chúa nước này tên là Đoan Nghi, tán thán việc làm ấy của cha rồi xin phép được góp phần công đức. Nàng đích thân đứng ra tổ chức buổi lễ long trọng này. Tuy thế, tự trong thâm tâm không ai hiểu được cách thức nghinh tiếp một vị Phật ra sao, nên họ chỉ có việc treo đèn kết hoa, sửa sang lại đường sá cùng bày bàn trầm hương bái vọng.

Mọi việc đang diễn tiến êm thắm, ngờ đâu gặp chàng thanh niên đẹp như thiên thần từ đâu hiện ra, nói những lời hàm súc biết bao ý nghĩa?

Sau khi vị trưởng lão cố vấn nghi lễ và khánh tiết trình bày cốt cách, nghi dung, việc làm, sự thông minh lẫn lời nói của chàng thanh niên, Công chúa Đoan Nghi nghe lòng xúc động mạnh. Một niềm tin tưởng lẫn hỷ lạc đến với nàng.

Công chúa phán truyền:

- Xem chừng thanh niên kia là người hiểu đạo lý sâu xa. Hãy làm theo tất cả những gì mà y nói.

Vị trưởng lão tìm gặp Trí Lợi, nói lại lời của Công chúa rồi xin ý kiến.

Chàng hỏi:

- Thực hành tất cả những gì mà tiểu bối nói ư?

Vị trưởng lão gật đầu mạnh mẽ:

- Phải rồi! Không sai được!

Trí Lợi cất tiếng dõng dạc:

- Để đón tiếp một vị Phật, trước tiên là hãy chuẩn bị cái tâm. Cái tâm tức là cái tấm lòng. Hãy làm cho “chính cái tâm”.

Vị trưỡng lão khẽ cau mày:

- Thế nào là “chính cái tấm lòng”?

Trí Lợi nói:

- Chớ giết hại, hận thù. Không được tham lam trộm cướp, tà vạy, bất chánh... mà phải sống giữa mọi người như tình ruột thịt huynh đệ. Điểm thứ nhất đó, hãy thọ trì.

Vị trưởng lão ngẫm nghĩ một hồi:

- Xin cho nghe điều thứ hai?

Trí Lợi nói:

- Cái tấm lòng đã chính rồi thì việc lành sẽ từ cái tâm ấy mà ra. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương đông. Hãy xuất một trăm ngàn đồng tiền vàng mua vải vóc lương thực chẩn bần cho những kẻ đói rách ở phương tây. Cứ như thế... phương nam, phương bắc. Đây là điều thứ hai, hãy như vậy mà thọ trì.

Vị trưởng lão lại gật đầu.

Trí Lợi sang sảng tiếp:

- Còn điều thứ ba, mọi nghi lễ, hình thức thì tuỳ nghi. Có hình thức nào khả dĩ xứng đáng để cung nghinh một vị Phật được? Hơn nữa, một vị Phật, một vị Toàn Giác, một đấng Toàn Thiện chẳng bao giờ muốn chúng ta xa xỉ về của cải, mà hãy dùng của cải sao cho hợp lẽ đạo thì thôi. Hãy làm với tất cả tấm lòng. Hãy làm với tất cả tấm lòng.

Đến ngày, một vị Sa-môn dung sắc thù thắng, dáng đi trầm tĩnh uy nghi như chúa sư tử lông vàng dẫn đầu hơn mười ngàn Tăng Chúng về đến kinh đô. Đấy là Đức Thế Tôn Ca-diếp.

Tin truyền đi rất nhanh. Quốc vương, Hoàng hậu, Công chúa cùng thị nữ hơn ngàn người cả thảy đều đi chân đất từ nội thành bước ra. Các hàng bô lão, quí tộc đã túc trực sẵn, cùng tháp tùng đi cung nghinh Đức PhậtTăng Chúng.

Trí Lợi trong lúc này đã được Quốc vương và cả triều đình sủng ái giao cho tất cả mọi công việc. Cuộc trai tăng làm phước diễn ra bảy ngày. Đức Thế Tôn Ca-diếp tỏ vẻ tán thán đức vua và triều thần đã làm đúng Chánh pháp; lại khen ngợi cuộc chẩn bần vĩ đại chưa từng có song song trong cuộc lễ. Đức Thế Tôn biết rõ mọi chuyện, Ngài cho gọi Trí Lợi đến nói rằng:

- Bánh xe Chánh pháp của Như Lai rồi sẽ có một cánh tay công đức của con.

Trí Lợi, sau đó, được Quốc vương chọn làm Phò mã. Và chàng trở thành một cận sự nam, một đại thí chủ trong giáo pháp của Đức Thế Tôn Ca-diếp...

Ý Lợi trở về làm quà cho em với một trăm con lạc đà chất đầy hàng hoá. Nhưng khi đến quê hương thì nương dâu đã biến đổi; nhà cửa ruộng vườn đã qua tay người khác; khắp lối hoang lá rụng tơi bời; người em giờ đã bóng chim tăm cá, biết đâu mà tìm?

Chàng gục khóc trên lối vào nhà cũ. Khi tỉnh dậy, chàng thấp thoáng thấy một bóng vàng đứng ở trước mặt và trên trán có một bàn tay ai âm ấm dịu dàng?

Ý Lợi mê sảng nói:

- Ai đây? Em tôi đâu? Em tôi giờ ở đâu?

Bóng vàng khẽ cất giọng nhỏ nhẹ:

- Ý Lợi thân huynh! Đệ đây! Đệ chính là Tâm Lợi đây!

Câu nói kia có mãnh lực đánh thức Ý Lợi vùng đứng dậy. Chàng đã tỉnh táo hoàn toàn. Đúng là Tâm Lợi, người em út của chàng. Chàng nghẹn ngào nắm tay vị Sa-môn, không cầm được nước mắt.

Khi ấy một chiếc xe tứ mã nạm ngọc dát vàng từ hướng đông chạy đến. Trước sau những kẻ tuỳ tùng hộ vệ uy nghi nghiêm cẩn. Dân chúng lũ lượt kéo ra xem.

Trí Lợi bước xuống, tất tả chạy đến khu vườn năm xưa gọi lớn:

Ý đệ! Tâm đệ!

Cả ba gặp nhau đứng sững lại. Kẻ này nhìn người kia. Kẻ kia nhìn người nọ. Ngơ ngác. Ngỡ ngàng.

Hồi lâu, họ chợt ôm chầm lấy nhau khóc lóc, mừng rỡ.

Sau ba năm, ngày hẹn trở về, Ý Lợi đã là nhà tỷ phú, Trí Lợi đã là một kim thân phò mã. Ai cũng thành công cả. Nhưng riêng Tâm Lợi, giờ chỉ là một Sa-môn khất sĩ nghèo nàn.

Cả ba lần lượt kể chuyện mình.

Đến phiên Tâm Lợi chàng lẳng lặng không nói gì, lâu lắm mới khẽ ôn lại chuyện cũ.

Đọc được thư hai anh, Tâm Lợi khóc mùi mẫn. Khi nước mắt đã vơi, lòng chàng ngổn ngang trăm mối. Tình thương của hai anh đối với chàng thế là cùng rồi.

Trước đây ỷ lại vào cha vào mẹ, sau này ỷ lại vào hai anh, chàng chẳng làm việc gì. Chỉ có chạy nhảy vui đùa với muông cầm điểu thú. Nay bỗng dưng đã mất cha mẹ, lại mất luôn hai anh, chàng đâm ra lúng túng. Chàng đi tới đi lui nghĩ ngợi lan man.

Buổi sáng chàng cho chim ăn, cho thỏ ăn. Buổi chiều chàng thơ thẩn vườn trên lại thơ thẩn vườn dưới. Đêm nằm ngủ, Tâm Lợi bần thần lo lắng đủ mọi bề. Ôn gẫm lại lời dạy của cha mẹ, của hai anh, chàng lẩm bẩm:

“- Tâm lành quả tốt. Cha mẹ ta nhờ bốn chữ đó, hai anh ta cũng thực hành theo bốn chữ đó. Vậy thì ta cũng nương tựa nơi bốn chữ đó mà lập thân thôi.”

Sáng ngày, chàng cho treo lên trước cổng một tấm bảng đề câu:

“- Nơi đây làm tất cả các việc lành, các công đức. Ai cần gì cứ hỏi.”

Không mấy chốc, tiếng lành đồn xa, người ta lần lượt tìm đến. Đầu tiên, người ta xin một bữa cơm, một manh vải. Chàng hoan hỷ cho. Những ngày hôm sau, không những xin cơm xin vải mà người ta còn xin thêm tiền bạc. Chàng hoan hỷ cho. Cứ thế, tuỳ theo nhu cầu của mỗi người, chàng lần lượt bố thí tiền bạc, nhà cửa, điền trang...

Chẳng bao lâu, chàng hoàn toàn khánh kiệt, chỉ còn một manh áo che thân. Thế nhưng lòng hoan hỷ nơi chàng không vì vậy mà thối giảm, chàng tin tưởng mãnh liệt vào bốn chữ “Tâm lành quả tốt”.

Hôm kia, xuất hiện một vị đạo sĩ to lớn, quàng chiếc y sáng rực rỡ như vừng dương, dung sắc trang nghiêm thù thắng; vị đạo sĩ đứng tịch nhiên bất động trước cửa, bình bát trước mặt, nụ cười an nhiên trầm lặng.

- Kính bạch Ngài – Tâm Lợi bước ra cung kính chắp tay thốt. Đệ tử chẳng có gì để bố thí nữa.

Đạo sĩ khẽ nói:

- Chẳng ai là “không còn gì”. Chỉ sợ thí chủ không rộng lượng với kẻ ăn xin này thôi.

Tâm Lợi sững sốt nhìn lại mình thì chợt thấy manh vải cuối cùng; chàng sợ hãi nói:

- Quả thật đệ tử còn một manh áo đang mặc trên thân. Nhưng... như thế thì có bất kính với Ngài chăng?

Vị đạo sĩ cười:

- “Tâm lành quả tốt”. Lòng thí chủ không bất kính thì của bố thí làm sao lại bất kính được?

Câu chuyện của hai người lôi kéo một số đông đến vây kín xung quanh. Khi nghe chuyện đạo sĩ cố ý xin cả manh áo cuối cùng, họ hét lên:

- Đồ bất nhơn. Tu hành mà bất nhơn!

Người lại nói:

- Người ta chỉ còn một cái khố rách mà cũng đến xin. Đồ ác nghiệt!

Người lại than:

- Ôi chao! Vô lẽ rồi y sẽ trần truồng sao?

Người ta định đánh đuổi vị đạo sĩ.

Nhưng chuyện lạ xảy ra.

Khi Tâm Lợi thò tay định cởi áo... thì một tấm áo vàng từ đâu giữa hư không rơi xuống quàng vào người chàng. Râu tóc chàng lại tự động rơi rụng nhẵn nhụi. Tâm Lợi đã biến thành một Sa-môn khất sĩ, y bát đạo mạo trang nghiêm thoát tục.

Vị đạo sĩ tự nãy giờ vẫn an nhiên tự tại đứng bên, bây giờ chợt cao lên mười trượng. Người khẽ nắm tay Tâm Lợi rồi bay lên giữa hư không, theo đường kinh hành bằng ngọc xanh đi về phía chân trời mất hút...

Tâm Lợi vừa kể xong thì Trí Lợi chợt quì xuống, khẽ nói:

Chính Ngài đấy! Vị đạonghèo nàn năm xưa đã tế độ cho cha mẹ ta. Ngài giờ là Đức Thế Tôn Ca-diếp.

Ý Lợi khuôn mặt chợt sáng lên một cách kỳ dị, chắp tay giữa hư không:

- “Con xin hết lòng thành kính đảnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác ấy!” Con xin nguyện được là một cận sự nam, sẽ bỏ cả gia tài tỷ phú này để hộ trì cho Đức Thế Tôn cùng thập phương Tăng Chúng cao cả.

Ngay khi ấy, từ bầu trời phương tây, một Sa-môn hùng vĩ như chúa sư tử lông vàng, hiện ra; tiếng nói như Phạm âm vọng lại:

- Tâm lành quả tốt! Tâm lành quả tốt! Ba đời chư Phật thành tựu đạo quả Vô Thượng, bước đầu cũng chỉ có vậy mà thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14294)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14346)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13262)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14625)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12637)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25213)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27854)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26328)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17219)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15905)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22124)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17124)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24886)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21942)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21717)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14662)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16695)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25022)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14771)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16603)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18006)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12914)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12693)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13881)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 27991)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27157)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14341)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20925)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14664)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24166)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28652)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14729)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13279)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16434)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27215)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16066)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21456)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant