Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Hoàng tử Nan-đà

23 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6462)
07. Hoàng tử Nan-đà

THANH GƯƠM BA-LA-MẬT
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


Hoàng tử Nan-đà

Nghe tin Đức Phật trở về Ca-tỳ-la-vệ, trái tim của hoàng tử Nan-đà đập lên rộn rã. Đã lâu lắm rồi, người anh tôn quý của chàng, bỏ vương vị ra đi, lang thang lê gót khổ hạnh; nghe đâu bây giờ đã tìm ra con đường vô thượng.

Hoàng tử Nan-đà không bao giờ có thể quên được người anh trai cao cả, uy nghiêm đó. Chàng đã học được nơi con người ấy từ cách đi, dáng đứng, nụ cười. Nhất là sự hiểu biết thâm sâu bao giờ cũng dường như toả ra nơi vầng trán thẳng và mịn. Rồi thể hiện tròn đầy nơi tình thương vô bờ bến lẫn cả đức độ bao la nữa.

Đức Phật đã trở về, và vài ba hôm sau sẽ có lễ thành hôn của chàng cùng công nương Kiều-dạ-lý (Kalyàni)! Ôi ! Thế là niềm vui ở nơi chàng trong sáng và phất phới như mảnh lụa trắng, như nụ cười của thiên thần, như cánh đào mùa xuân phô màu hồng thắm.

Mảnh vương bào chợt tung bay trong ánh nắng ban mai tinh anh hồng ngọc, hoàng tử Nan-đà hối hả thúc con thần mã để báo tin mừng đến vị hôn thê.

- Hỡi con hoàng anh kiều diễm của ta! Chàng đắm đuối nhìn Kiều-dạ-lý rồi nói – Người anh cao cả của chúng ta đã về đến lâu đài của vương phụ. Hãy cùng ta đến thăm người.

- Này chàng! Kiều-dạ-lý nắm tay hoàng tử Nan-đà say sưa nói – Này hỡi con voi chúa với đôi ngà vàng kiêu hùng và mỹ lệ của em! Không nên đến thăm vị sa môn tầm thường ấy. Chẳng có gì tốt đẹpvinh hạnh cho đôi ta đâu.

Nói xong, Kiều-dạ-lý chớp chớp đôi mắt xanh màu hồ thuỷ, gợn tia lửa nồng nàn như nắng ấm của cung trời. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy lòng mình mềm yếu và ẻo lả như tơ. Chàng chết đuối giữa biển tình của thiên nữ Dạ-ma mất rồi.

Ngày cử hành hôn lễ đã đến. Trong lúc mọi người rộn rịp mang lễ vật đến chúc mừng cho đôi tân giai nhân, thì Đức Phật hiện ra rực rỡđẹp đẽ như chúa phượng hoàng, chói ngời hào quang ngũ sắc.

Cả dòng họ Thích Ca vốn kiêu căng, ngã mạn nhưng bây giờ cũng tự động quỳ cả xuống.

Uy nghi như chúa sơn lâm, Đức Phật cất tiếng nói:

- Như Lai cũng đến dự lễ. Như Lai cầu nguyện hạnh phúc cho tất cả mọi người.

Hoàng tử Nan-đà sững sờ nhìn anh. Nhìn không chớp mắt, tự nghĩ:

- Đây là vị Phật? Ôi cao cả xiết bao! Ở trước ngài, vua núi là đỉnh Hy Mã Lạp Sơn kia cũng phải cúi đầu xuống thấp.

Sau khi thọ thực xong, Đức Phật trao bát cho hoàng tử Nan-đà, nói lời phúc chúc rồi đứng dậy ra về.

Hoàng tử Nan-đà kính cẩn ôm bát lặng lẽ đi theo sau, tự nghĩ:

- Đến cửa, Đức Cao Cả sẽ thâu bát lại.

Nhưng không, Đức Thế Tôn vẫn đi thẳng. Vì kính trọng anh, hoàng tử Nan-đà không dám thưa. Cho đến khi rời khỏi cung điện khá xa, Đức Thế Tôn vẫn không hề quay lại. Hoàng tử Nan-đà tự nghĩ:

- Rồi đây, khi nhớ lại, ngài sẽ thâu bát. Ta hãy đưa ngài đến chỗ tạm cư trong vườn Ngự Uyển.

Khi hoàng tử Nan-đà vừa rời khỏi cửa, nàng Kiều-dạ-lý sợ hãi trông theo, linh tính như báo trước cho nàng hay một điềm chẳng lành nào đó về chuyện hạnh phúc lứa đôi. Với hàng lệ ngọc lóng lánh tuôn rơi, với xiêm y tóc tai rối bời, Kiều-dạ-lý phủ phục bên đường, cất tiếng gọi não nùng:

- Hỡi hoàng tử ngọc ngà châu báu của em! Hãy trở lại!

Hoàng tử Nan-đà nghe từng âm thanh quấn quýt, thiết tha, vương vấn đọng lại giữa không gian. Tâm chàng dường như bị bao phủ trọn vẹn trong chiếc lưới của vị thần tình ái; những mũi tên xé gió buốt đau đến tận tâm can.

- Hỡi con voi chúa có đôi ngà vàng của em! Đã đến giờ xây dựng ngôi rừng diễm lệ của đôi ta!

Hoàng tử Nan-đà một chân bước tới, một chân bước lui. Nhưng vị Đại Sa-môn kia, Đức Thế Tôn, người anh cao cả, bậc trưởng thượng đáng kính ấy vẫn như chúa sơn lâm, từng bước, từng bước uy nghi, an nhiên tự tại. Hoàng tử Nan-đà bịt chặt tai lại, cắn răng, hối hả bước theo. Tự nghĩ:

- Cũng không muộn gì. Hãy đưa Đấng Tự Tại đến nơi đến chốn, dâng bát cho ngài, trở về còn kịp giờ cử hành hôn lễ.

Và cứ thế, hoàng tử Nan-đà lủi thủi theo chân Đức Phật đến ngự viên.

Sau khi Đức Thế Tôn rửa chân, ngồi kiết già trên toà sư tử, quay lại nói với hoàng tử Nan-đà – khi ấy vẫn đang lặng lẽ ôm bát đứng hầu một bên.

- Này Nan-đà! Ngươi có muốn sống đời xuất gia với Như Lai không?

Hình ảnh Kiều-dạ-lý kiều diễm lại đến với chàng. Ôi! Vóc ngọc, dáng ngà! Ôi! Đôi mắt biếc, vòng tay mềm và nụ cười như chén rượu say của thần hoan lạc. Nàng đấy! Nàng hiện rõ trong chàng, lả lơi, mời mọc đến ngất lịm cả tâm hồn. Hoàng tử Nan-đà chợt thấy mình thở hổn hển, trán toát mồ hôi, mệt lả.

Khi trái tim đã hết hồi hộp, hoàng tử Nan-đà trấn tĩnh lại, trước mặt, Đức Phật vẫn an nhiên, trầm lặng, trên môi ngài dường như mãi nở nụ cười bất diệt. Như con beo con đứng trước chúa sơn lâm, hoàng tử Nan-đà chợt quỳ sụp xuống:

- Con... con... ưng thuận đời sống xuất gia!Tỷ-kheo Nan-đà không tìm thấy chút lạc thú nào trong đời sống khước từ. Tinh thần chàng mỗi lúc mỗi mỏi mòn, suy nhược. Hình bóng vị tân nương kiều diễm đã chiếm trọn tâm hồn chàng. Suốt ngày, suốt đêm, vị tân tỷ-kheo kia sống trong cơn mộng trùng trùng của mơ tưởng; bỏ cả ngủ, quên cả ăn, bần thần dã dượi.

Hôm kia dường như không còn chịu đựng nổi nữa, Nan-đà tâm sự với đạo bạn:

- Này chư pháp hữu! Ích gì đời sống xuất gia phạm hạnh này? Tôi bất mãn với nó. Tôi sẽ từ chối phẩm hạnh thanh cao để cam chịu đời sống thấp hèn, làm người cư sĩ.

Đức Phật cho gọi Nan-đà đến hỏi sự thật. Nan-đà thừa nhận sự suy nhược thái quá của mình và tỏ ra lo ngại đến đời sống cô quạnh của Kiều-dạ-lý công nương.

Biết tâm của vị thánh tương lai đang bị lửa ái dục đốt cháy mê loạn, Đức Phật bèn nói:

- Nan-đà! Hãy cùng với Như Lai đi chơi một chút cho khuây khỏa. Ta sẽ đến thăm một cõi trời.

Đức Phật liền dùng oai lực thần thông đưa tỷ-kheo Nan-đà đến cung trời Đẩu Xuất (Tusita).

Trên đường, khi đi qua một khu rừng, Nan-đà để ý thấy một con khỉ cái đã bị mất tai, mũi và đuôi, đang cố bám lấy thân cây cháy trơ trụi giữa đám đất vừa bị thiêu rụi.

Đến cung điện huy hoàng rực rỡ của đệ tứ Thiên Đường, nhạc trời trỗi lên lồng lộng giữa hư không, những cánh hoa mạn đà trải đầy trên lối đi bạch ngọc, óng ánh trân châumã não. Một muôn chư thiên lấp lánh ánh sáng, phục sức diễm lệ, kiêu kỳ, phơi phới hiện ra chào đón đấng Thiên Nhơn Sư. Và kìa! Mười muôn thiên nữ sắc đẹp lộng lẫy làm lu mờ nhật nguyệt, đang e thẹn núp sau những đám mây hồng...

Khi đến tòa lâu đài với năm trăm bảo tháp kim cương, hội tụ giữa hư không lóng lánh muôn màu, Nan-đà thấy một chiếc ngai rực rỡ bảy báu, không có chư thiên ngự, năm trăm thiên nữ thân ngọc yêu kiều đứng hầu một bên, bèn rụt rè hỏi:

- Chiếc ngai vô vàn trân trọng kia sao chưa có vị chư thiên diễm phúc nào an ngự, mà lại để trống không như vậy?

Một thiên nữ tủm tỉm cười đáp:

- Chúng thiếp chờ đợi cung nghinh một vị tỷ-kheo đang tu hành trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

Nan-đà thót mình hỏi:

- Vị nào vậy?

- Vị nào tinh tấn tu hànhThiên nữ cất giọng lảnh lót đáp – nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà!

Rời khỏi tòa lâu đài, quả tim Nan-đà như còn nhảy loạn trong lồng ngực.

Trên đường trở về hạ giới, Đức Thế Tôn hỏi:

- Này Nan-đà! Những thiên nữ tại Thiên đàng thứ tư, nhất là thiên nữ nơi năm trăm ngôi bảo tháp; so với công nương trân quý Kiều-dạ-lý, ai đẹp, mỹ miều hơn?

Nan-đà đỏ mặt ra đến mang tai, cúi đầu đáp:

- Bạch Đức Thế Tôn! So với các vì thiên nữ, dẫu là thiên nữ mạt hạng, thì Kiều-dạ-lý công nương tựa như con khỉ cái bị cháy, đang cố bám lấy thân cây nơi khu rừng nọ!

Đức Thế Tôn nở nụ cười trong tâm nói:

- Vậy này Nan-đà! Hãy tinh tấn, hãy cố gắng! Như Lai bảo đảm rằng nếu Nan-đà kiên trì thực hành giáo lý, thì một ngày kia, Nan-đà cũng đạt được những công nương mỹ lệ như vậy.

Nan-đà như một đứa trẻ được khuyến khích, hớn hở đáp:

- Nếu vậy, đệ tử sẽ lấy làm thỏa thích mà sống đời phạm hạnh cao thượng!

Từ đó, khi ở tịnh đường, khi thì nơi gốc cây, khi thì tại khu rừng vắng, Nan-đà thiền định rất mực tinh tấn. Các vị tỷ-kheo khác biết chuyện, bàn tán với nhau rằng:

- Tỷ-kheo Nan-đà “người làm thuê”. Tỷ-kheo Nan-đà với mục đích phạm hạnh là đạt cho được năm trăm vì thiên nữ và chiếc ngai vàng thất bảo!

Chuyện đến tai, Nan-đà nhận thấy có một cái gì thấp kém, hạ liệt trong mục đích của mình, nên cảm thấy xấu hổ vô cùng.

Đức Thế Tôn biết tâm của vị tân tỷ-kheo, bèn cho gọi đến, rồi nói:

- Này Nan-đà! Hôm nay, hãy cùng với Như Lai đi chơi một miền xa, đến một cảnh giới đau khổ!

Đức Phật dùng oai lực thần thông đưa Nan-đà vào tầng địa ngục. Dịp này vị tân tỷ-kheo được cơ hội chứng kiến tận mắt những hình ảnh hãi hùng. Đây là một cột trụ đồng đỏ lửa hừng hực, các tội nhân trần truồng phải ôm siết để leo lên, bên dưới những con quỷ mặt trâu đầu ngựa cầm những chiếc đinh ba nhọn hoắt đâm suốt qua lưng, da thịt cháy xèo xèo. Nọ là những chiếc cưa, cưa tội nhân ra làm mấy đoạn, gan ruột đổ lòng thòng. Và thôi, nào là bàn chông lửa cháy ngùn ngụt, tội nhân máu me, giãy đành đạch, la hét kêu gào; nào là những cái cối đồng to lớn, đưa lên đưa xuống nhịp nhàng những chiếc chày to, bên trong là những tội nhân xương thịt bầy nhầy... Nan-đà đi đến một lò nấu người. Những chiếc vạc to lửa cháy ngụt trời, bên trong dầu sôi sùng sục. Những con quỷ mặt xanh, mũi đỏ, thò tay quăng tội nhân vào từng chảo một. Nơi chảo khác, dầu cũng đã sôi như sóng cuộn, lại không có tội nhân. Tỷ-kheo Nan-đà hỏi lý do, quỷ đáp:

- Để dành cho một vị tỷ-kheo đang thối thất trong giáo pháp của Đức Thế Tôn.

Nan-đà thót mình lên, hỏi:

- Ai vậy?

- Cho vị nào đắm say sắc dục, tưởng tư ái lạc – Quỷ đáp – Nghe nói là tỷ-kheo Nan-đà.

Từng chân tơ kẻ tóc đều dựng đứng cả lên, da thịt nổi gai ốc, một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng. Nan-đà quày quả theo Đức Thế Tôn trở lại trần gian mà cả tâm thần còn bủn rủn.

Nan-đà phủ phục bên chân đấng Giác ngộ:

- Bạch Đức Thế Tôn! Xin ngài hãy hủy bỏ lời đảm bảo với đệ tử về chuyện các vị thiên nữ diễm kiều.

Biết tâm vị tân tỷ-kheo này đã đầy đủ hai pháp tàm và quý (hổ thẹnghê sợ). Đức Thế Tôn dạy rằng:

- Này Nan-đà! Cho đến chừng nào ngươi không còn bám víu vào những sự vật thế gian! Chừng nào ngươi đã vĩnh viễn viễn ly dục lạc, nội tâm hoàn toàn thanh tịnh như viên ngọc trong suốt không tỳ vết ô nhiễm... thì lúc ấy Như Lai hủy bỏ lời hứa cũng không muộn gì!

Nói thế xong Đức Phật đọc lên bài kệ:

"Đau khổ và khoái lạc

Bùn nhơ đáy mặt hồ

Hương hoa sen tỏa ngát

Cho người diệt si mê

Khoái lạc và đau khổ

Xúc động tâm phàm phu

Người vĩnh ly nhiễm ái

Hoa sen thắm mặt hồ!"

Từ đó tỷ-kheo Nan-đà gạt bỏ mọi tư tưởng xấu xa, kiên trì tu tập, không bao lâu đắc quả A-la-hán.

Sau khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, ngài tri ân sâu xa đến phương pháp giáo huấn thù thắng của Đức Thế Tôn, cảm thán thốt lên bài kệ:

"Giữa ao tù vô tận,

Tâm tôi được vớt lên

Đức Thế Tôn vô thượng

Giúp tôi thoát não phiền."

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14301)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11840)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14349)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13268)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14630)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25226)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27861)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26335)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17224)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17128)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24893)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21719)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16778)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18768)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14773)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16608)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18010)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12917)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12695)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13884)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28008)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27174)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14344)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20942)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28664)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14731)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13281)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16442)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27224)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12017)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16071)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21467)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant