Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Bên Bờ Suối

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6643)
07. Bên Bờ Suối
HÀNH HƯƠNG TÂM LINH
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


BÊN BỜ SUỐI

Để lại nơi thị trấn những tiếng cười tăng thượng mạn của đám môn sinh minh triết giáo, Triết Hựu lần theo phía ngoại ô, đi mãi, đi mãi. Với một cõi lòng đầy ứ, ngột ngạt, buồn nản - chàng nghĩ. Khi ta bị quẫn trí về một định mệnh, đã nỗ lực cắt đứt mọi tương hệ với định mệnh ấy - thì lại rơi vào một hiện hữu khác, định mệnh khác! Định mệnh mới này, xem chừng thì trọng lượng khổ đau cũng nặng nề không kém. Định mệnh mới này là: không còn gì trên trần gian, không biết mình sẽ thành tựu gì, hướng đến mục đích nào. Vẫn chưa đi được một bước, chàng nghĩ - trên lộ trình về chân phúc. Vẫn còn nguyên vẹn mọi cá tính trần gian, trần ai, tham sân, phiền não. Cẩm nang mang theo có ích gì không? Cái linh quang sáng suốt mầu nhiệm vẫn thường trực chiếu sáng, rỡ rỡ, hằng hằng - nhưng tại sao, vẫn từ trong ấy, vẫn gọi kêu âm ỉ, đòi vươn ra, đòi bước tới? Vươn đến đâu, bước đến đâu khi toàn bộ vận hành của pháp giới đều là mây. Một bên là thần Vichnou bảo tồn, một bên là thần Shìva hủy diệt - thì có cái gì gọi là thực hữu? Đã không có cái gọi là tồn tại ngoài không thời gian thì sao ta không chịu dừng lại? Nhưng dừng lại ở đâu? Ở cái vùng trống không hoang liêu điêu tàn thê thảm này à? Dừng lại mà không phải là lắng dứt, yên nghỉ thật sự thì chỉ là sự đầu hàng, thua cuộc, sự thu rút, quánh đặc lại của một cái ao hồ tù đọng. Phải là sự dừng lại của bão tố. Phải là sự im lặng mênh mông của đại dương. Phải là sự yên nghỉ sau cuộc ra đi dài. Như voi chúa ra trận mạc: ngửng đầu và tiến lên.

Triết Hựu nằm lả người bên bờ suối. Xa kia thung lũng là trang trại của Vọng Việt. Bây giờ, Vọng Việt đã quá xa cách chàng. Y đã nghiễm nhiên tách rời, nhảy vọt lên cao với hào quang danh vọng tỏa rộng xung quanh. Người bạn từ một thuở ấu thơ đã chết. Những giờ luận đạo, những lúc tham thiền, những khi ngoạn du, biết bao kỷ niệm đã đầy ắp giữa hai người. Và chỉ có Vọng Việt mới xứng đáng là đối thủ của chàng trong kiếp lạc đà thâu lượm và chở mang kiến thức. Giờ y đang làm gì, nghĩ gì, phía sau cái tiểu giang san ngà ngọc kia? Y đã đạt “cái ấy”? và đã thật sự dừng lại? Hay đang dừng lại nơi ngôi cao và danh vị để hưởng thụ thân xác trong ý nghĩa cụ thể nhất? Và cũng là người nhất? Một đầu óc minh triết như vậy, với dáng người trầm tĩnhtự chủ như vậy, một đời sống tuổi thơ thánh thiện như vậy - có lẽ nào lại tự phản bội lấy mình để ôm níu, dính mắc vào những cái - mà đã một thời, hai người từng khinh bỉ và chế nhạo?

Triết Hựu chưa khẳng định, nhưng đã hai lần, từ Vọng Việt, cái bóng tối ấy hiện ra: Một lần bóp nát những đọt lá bên bờ suối và một lần tự đắc, thỏa mãn trên diễn đàn. Một bên thì thò cánh tay ra để bóp nát ngoại giới, một bên thì thò cánh tay ra để chiếm hữu ngoại giới: cánh tay của bóng-tối-vô-thức ấy. Đã một thời chàng thấy rõ cánh tay ấy của mẹ và của cha. Bây giờ là Vọng Việt. Chàng có thể lầm lẫn không?

Triết Hựu còn nhớ thuở xưa, một lần, tại Bénarès, trên bờ sông Jumma, cả hai đi theo sau cuộc lễ Durga-puja xem đám rước thần huyền mẫu Kàlì. Từng gia đình, từng đoàn, từng lũ đều bưng những tấm hình thần Kàlì rồi đem ném xuống sông, sau đó trở về hoan hỷ múa hát tưng bừng.

- Kàlì là vợ của Thần Shìva- thần hủy diệt. “Một tượng trưng của hủy diệt, quẳng xuống dòng trôi chảy hủy diệt, có nghĩa là gì?

Vọng Việt đưa mắt dò hỏi chàng.

- Hủy diệt của hủy-diệt tức sinh hóa, sáng tạo (shakti) - một tượng trưng thứ hai của thần Shìva. Nên Kàlì không những là thần chết mà còn là thần sanh đẻ nữa. Ngài có bốn tay, hai tay tử, hai tay sanh! Có khác gì âm dương luận của dịch kinh Trung Hoa - Âm dương lưỡng cực trong nhau, xung đối để tạo nên sự hòa điệu, sinh thành tứ tượng, bát quái?

- Chỉ khác danh từ, kiến giải hoặc kiến luận là khác thôi. Và còn tùy thuộctrình độ thẩm thấulãnh hội.

Im lặng hồi lâu, Vọng Việt lại hỏi:

- Thiện hữu ơi! Sinh rồi tử. Tử rồi sanh. Đấy là định luật tất yếu. Khi thiện hữu thấy người ta quẳng thần hủy diệt xuống dòng trôi chảy hủy diệt, rồi hoan ca, rồi hát ca trên đường trở về nhà - thiện hữutìm ra được một mật nghĩa nào để tạo một thái độ sống cho đời mình?

Triết Hựu không trả lời được cho đến khi cả hai đứng trong đám đông xem cuộc hỏa thiêu người trên sông.

- Sự chết chỉ là một lớp tro tàn, như bạn thấy đó. Thân xác này có thể quẳng vứt trên nghĩa địa, trên rừng cho dã thú, trên bãi hoang cho kên kên thì cũng giống nhau. Vậy thì thái độ sống không phải là thái độ thân xác, sự chết - mà phải là thái độ tinh thần, sự sống. Sự sống, chính là sống hợp lẽ đạo đời đời vậy.

Vọng Việt thở dài xa xôi:

- Thiện Hữu ơi! Sống hợp lẽ đạo đời đời là sống thế nào? Đạo là thăng trầm, doanh hư, là đắc thất, là sự tương hỗ vận hành của nghịch lý âm dương… Cái ấy nó tạo sự xuống lên, tử sinh nhịp nhàng cho vạn hữu. Vậy sống hợp lẽ đạo là cũng phải xuống lên, tử sinh nhịp nhàng như chúng, hay là bước ra ngoài, khoanh tay thiên cổ nhìn hoa nở rồi tàn, đông khứ xuân lai?

- Phải rồi. - Triết Hựu lại hăng say nói, đạo là Brµhman, là phạm thể, là thái cực, là Thượng đế, là thực tại tuyệt đối nhất nguyên. Sống hợp lẽ đạo là trở về với Thượng đế nhất nguyên trong lòng mình, từ bỏ sự phân ly sai biệt, chia cắt, nhị nguyên. Vì “vô, danh thiên địa chi thủy; hữu, danh vạn vật chi mẫu”. Cho nên, "thường vô” mới thấy được cái sơ thủy, cái đầu tiên, cái đạo. Mà “thường hữu” là vào dòng, là trôi lăn, là trôi chảy, là chia lìa, là làm Adam và Eva để lưu đày vĩnh kiếp! Nhưng cũng như “thường hữu” mới có sự sinh thành của sum la van tượng.

Bây giờ, nhớ lại lần đối thoại đó, Triết Hựu hổ thẹn vô cùng. Chàng tưởng đâu chàng hiểu biết nhiều lắm. Bao nhiêu hiểu biết rồi cuối cùng cũng không giải quyết được gì. Vọng Việt cũng như chàng đều là kẻ mù lòa trên đường về với Thượng đế. Con đường vô danh có phải là âm lý, vì âm là co rút lại. Con đường hữu danh có phải là dương lý, vì dương là giãn nở, là phát triển ra. Nhưng thái độ âm hay dương đều ở trên hai cực của xung khí, mâu thuẫn và khổ đau cả. Chàng nhớ trên đường về nhà, Vọng Việt nói:

- Hủy diệt hủy diệt tức sinh hóa, vậy vào dòng vào dòng tức lộ trình sáng tạo.

Một câu nói của Vọng Việt đã mù xa trong ký ức bây giờ hiện bật lên, trở thành lời giải cho thái độ sống của Vọng Việt bây giờ. Y vào dòng, tức chọn con đường hữu vi, hữu danh, nhập thế. Tức là đối nghịch lại con đường của chàng: vô vi, vô danh, xuất thế. Một bên: vô, danh thiên địa chi thủy. Một bên: hữu, danh vạn vật chi mẫu. Nhưng: “thử lưỡng giả đồng xuất nhi dị danh. Đồng vị chi huyền, huyền chi hựu huyền, chúng diệu chi môn” (Lão Tử Đạo Đức Kinh: Hai cái đó đồng một chỗ mà đi ra nhưng tên gọi khác nhau. Vì đồng nên gọi huyền. Huyền rồi lại huyền nữa. Đó là cửa vào ra của mọi huyền diệu.)

Triết Hựu chợt run bắn người lên, tưởng như đã thâm ngộ lẽ huyền vi của Đạo. Nhưng một lúc sau như một gáo nước lạnh tạt vào mặt chàng: “thường hữu, dục dĩ quan kỳ kiếu”. “Kiếu” có nghĩa là vi tế, cũng có nghĩa là chia lìa! Không thể biện minh gì được nữa rồi. Triết Hựu cương quyết phủ nhận con đường hữu danh của Vọng Việt.

Trên bờ sông, Triết Hựu đã suy nghĩ lan man như vậy, rối loạn như vậy, bế tắc như vậy. Khi tất cả những sợi thần kinh trong các tế bào óc tạm thời lắng dịu thì những tế bào ruột lại gọi kêu: Đói. Đói. Triết Hựu lại tò mò lắng nghe chúng. Và chµng chợt mỉm một nụ cười chế nhạo, khinh bỉ. Thế gian, suốt một đời, vạn cuộc đời, chỉ lo đáp ứng cho chúng, giải quyết chúng. Còn chàng thì không. Không bao giờ! Chúng là con người thân xác. Ta là con người tinh thần. Ta cứ là không đói xem thử mày làm gì ta, thân xác? Triết Hựu lại mỉm cười đầy vẻ ngạo mạn và thách thức. Nếu ngươi trang bị bằng rắn cobra hoặc nàga, tay ôm cái thây ma, những chuỗi hột bằng sọ người, tay cầm thanh gươm, tay cầm đầu người máu me vừa mới chặt - như nữ thần Kàlì thì ta có ngán gì đâu?

Thuở xưa - Triết Hựu mơ màng nghĩ - có một chàng thanh niên đạo sĩ trong cuộc chạy đua về Thượng đế, y ngồi nghỉ dưới một gốc cây. Chàng ta cũng mệt, cũng đói, và cũng bị “cái ấy” săn đuổi chạy thất điên bát đảo. Ngồi đây thật là diễm phúc và kỳ thú nếu cây biết tỏa ra mùi trầm hay hương hoa của bốn phương trời. Đạo sĩ nghĩ như vậy và gốc cây chợt cho hương và trầm. Nếu có một mâm cơm ngon lành, thanh niên đạo sĩ ước tiếp. Thượng đế biết sự thối thất của đạo sĩ, ngài bèn sai một sứ giả thiên thần hóa dạng một thiếu nữ diễm kiều, trên tay bưng một mâm cơm, dĩ nhiên là đầy những sơn hào hảo vị, đến dâng lên đạo sĩ:

- Đây là giang sơn của nữ vương khoái lạc - Thiếu nữ nói - Và thiếp là nô tì của người. Xin dâng chàng vật thực mọn mảy này để nói lên tấm lòng của nữ chúa đối với khách đạo sĩ hào hoa.

- Ta là sa-môn - Đạo sĩ nhướng mày đáp - Ta là kẻ sống đời tinh thần cao khiết, từ bỏ dục, từ bỏ ái, từ bỏ sắc, từ bỏ những đam luyến của khoái lạc ngũ trần. Thâm tạ tấm thịnh tình của nữ vương khoái lạc. Dù thế nào ta vẫn chối từ. Ta chẳng bao giờ còn bị vòng tay của mĩ nữ quyến dụ nữa!

Thiếu nữ vẫn mỉm cười và đưa mắt trữ tình mời mọc. Đạo sĩ quay phắt mình và bước đi. Nhưng mùi thơm của thức ăn, của kỳ nữ chợt kéo trì chân chàng lại. Và chàng ngã quỵ xuống. Không còn dậy được nữa…

Triết Hựu cất tiếng cười to lên. Yếu quá. Yếu quá. Thượng đế thật là đấng toàn tri, biết rằng y sẽ gục ngã. Còn ta? Con sư tử bên trong chàng rống to lên: “Không. Không bao giờ”. Và chàng lại mỉm cười, bỏ bờ suối, men theo con đường nhỏ dẫn về rừng, ở đấy là những sườn núi dựng đứng cao chớn chở, phía trên đổ xuống một làn nước bạc nom như dải lụa trắng, như chiếc sari hoặc khaddar vắt trên vai của các thiếu nữ. Sau xa nữa là khu rừng già. Trong tâm hồn của Triết Hựu, từ thuở ấu thơ cũng có hình ảnh một khu rừng lý tưởng: khu rừng có những tảng đá liền lạc dựng đứng chênh vênh hướng tới đỉnh trời xanh. Và từng con suối lượn quanh lặng lờ, những dòng thác ồ ạt ngàn năm từ hoang nguyên tuôn xuống. Ở đấy, sau từng động đá cổ quái âm u, dưới những gốc cổ thụ lâu đời, trên sườn núi cheo leo - có những sa-môn, đạo sĩ đem thân kim cươngtạc tượng với đất trời, ngồi trầm tư bất động cô liêu lạnh lùng như đỉnh tuyết - nói lên ý chí bất khuất, hướng thượng để đạt quyền năng tạo hóa - hay nhô thân phận hữu hạn của mình lên trời cao vô hạn. Thế giới ấy, hình ảnh một khu rừng như vậy chỉ là mơ tưởng hay có thể hiện thực?

Có tiếng cười của những cô gái từ phía rừng vọng ra. Chàng không muốn đi đến hướng ấy nữa. Chàng ngồi lại. Chẳng biết có định mệnh nào chờ ta vào ngày mai? Phải chăng, những thăm dò, dự định, dự tưởng chỉ như là những mũi tên hữu hạn bắn vào tương lai mịt mù phía trước? Vô ích thôi. Có thể chàng sẽ đói và chết ở đây. Nhưng sự việc như vậy cũng vừa tầm thường vừa kỳ lạ quá. Lại giản dị nữa. Chàng có thể nhịn đói và chết nhưng chắc chắn là với nụ cười bình lặng. Chàng cũng có thể ăn cỏ, rễ cây, lá cây, củ rừng và nhiều thứ tương tự khác để sống. Chàng biết rằng mình có thể thích ứng với những đời sống thật đơn giản. Đơn giản như một sa-môn khổ hạnh. Chết sống không vấn đề. Mà vấn đề là sống để làm gì và chết để làm gì. Sự sống vốn bất khả hủy diệt thì đời sống mới chỉ là sự kéo dài của đời sống cũ - rồi có khác gì với những khổ đau và vô vọng hiện giờ không? Hay qua một cuộc tái sanh, sự khổ đau còn mịt mù hơn vậy nữa, cộng thêm một lớp thời gian, chủng nghiệp và vô minh?

Ta sẽ thí nghiệm thỏng tay buông thả đời mình, Triết Hựu nghĩ. Và chàng lại nằm dài xuống gốc cây.

Có tiếng vó ngựa. Hựu nom thấy một thiếu nữ đang rẽ cương tiến về phía rừng. Dáng dấp quen thuộc của thiếu nữ đập vào trí tò mò chàng. Triết Nguyệt! Thiếu chút nữa chàng la lớn. Triết Nguyệt đi ngựa, đấy là một điều kỳ lạ. Lại một mình vào rừng, đấy là một kỳ lạ khác.

Một chiếc xe hai ngựa từ chân đồi đi ra. Thoáng thấy xe, Triết Nguyệt buông cương cho ngựa dừng lại. Nàng buộc ngựa rồi đến ngồi trên một tảng đá. Xe đã đến gần. Và khi ấy, Triết Nguyệt cất giọng hát:

“Khi nàng đến, Thượng đế chợt che mặt sau làn lụa trắng,

Và dòng sông thì trải mình bằng tấm thảm xanh,

Cả vũ trụ nín hơi rồi cất lời ca thánh linh,

Đấng ngôn và lời ngủ quên trong đôi mắt biếc,

Ta thổi linh khí pràna thành mưa bụi nhỏ rải lên mái tóc nàng,

Thành hạt ngọc màni

Ta hiến dâng nàng, ôi thần nữ...

Em chàng sao lại thuộc cả thơ của tu sĩ Chandi Das? Ôi! Nhà thơ trữ tình lãng mạn xứ Bengali đó đã nhập thể vào tâm hồn Triết Nguyệt rồi chăng? Tiếng ca ấy rõ ràng đã làm cho nàng ly thoát khỏi trần gian hạn hẹp để bay bổng lên mấy tầng trời cao vút. Triết Hựu lặng lẽ nhìn đôi mắt Triết Nguyệt lim nhim, hai tay ngửa ra như muốn ôm choàng cả vũ trụ vào lòng. Và chính chàng cũng thấy tâm hồn mình lâng lâng, như rơi hẫng vào một cõi miền khói sương, nửa hư nửa thực, có âm nhạc lời ca, vũ khúc nghê thường và tiên nữ. Lời ca ấy cũng có mãnh lực làm cho chiếc xe hai mã dừng lại, bất động. Phía sau xe hai thiếu nữ bước ra, cũng đưa mắt nhìn Triết Nguyệt, lặng lẽ…

Lời ca đã dứt mà âm hưởng hình như còn véo von, lên cao mãi, len lõi qua mấy từng mây. Hựu chưa một lần dám nghĩ rằng, một bài ca tình ái mà có mãnh lực đưa tâm hồn người lên cao như vậy, lại có thể giải thoát trong một vài phút giây nữa… Ôi, nhưng đấy cũng chỉ là một trạng thái vong ngã thôi, dù là vong ngã tuyệt vời! Nó cũng là một hình thức của khoái lạc đấy, nhưng chỉ là khoái lạc phù du! Không ngờ em chàng mà cũng có đời sống tình cảm vời vợi như vậy. Từ lâu, trong mắt chàng, Triết Nguyệt chỉ là sự kết tinh của một khối thuần chất hồn nhiên, một cái gì ở bên kia của cõi thánh thiện và cao khiết. Hình ảnh của một viên ngọc pha lê trắng tinh, trong suốt thường hiện lên trong óc chàng mỗi khi nghĩ đến em. Viên ngọc ấy, bây giờ, có cái gì đây, như là những hạt cát vi ti dính lên ở đấy bởi một chất keo cuộc đời? Có cái gì ở đấy nữa, hình như là những sợi mỏng của tháng năm, niềm vui, nỗi buồn, yêu thương và đau khổ? Như vậy, có nghĩa là Triết Nguyệt đã đánh mất thiên đường tuổi thơ. Có nghĩa là bắt đầu làm một hiện sinh để đi vào dòng trôi chảy cát lửa của trần gian. Triết Hựu lại thở dài, đăm chiêu, tư lự.

Lúc ấy, một thanh niên bà-la-môn bước ra khỏi xe: Vọng Việt. Lại một lần nữa, Triết Hựu suýt buột miệng kêu lên. Chàng hầu như không còn tin ở mắt mình nữa. Có thể như vậy được sao? Cái thế giới thường được coi là nhất thể mà nó phức tạp muôn chiều như vậy à? Sự biến hóa đa dạng của nó lại tạo nên những tao ngộ đến không lường ước được.

- Sao nàng lại biết ta ở đây mà tìm đến?

Triết Nguyệt không trả lời Vọng Việt mà đưa mắt nhìn hai thiếu nữ với đôi mắt buồn hoang dại.

Vọng Việt hôn tay nàng:

- Đấy là hai người hầu nữ thường đi theo ta mỗi lúc đi dạo - do lệnh của cha. Nàng đừng có ý nghĩ nào khác. Hỡi thần nữ! Vũ trụ này trong mắt ta, chỉ có nàng thôi.

- Hầu nữ mà cũng quốc sắc thiên hương nhỉ. - Triết Nguyệt lơ đãng nói.

Vọng Việt ngồi xuống một bên, ôm bờ vai nàng.

- Địa vị của ta bây giờ nó rắc rối như vậy đó. Hình như mỗi người đều có một hiện hữu với những tương quan nhất định. Nói một cách minh triết là: tương quan xác định cho hiện hữu. Cắt đứt tương quan, hiện hữu không thực tại. Nàng có đồng ý với ta như vậy không?

Triết Nguyệt quay mặt đi, cười lạt:

- Thưa giáo chủ! Nơi đây chẳng phải là diễn đàn của minh triết để giáo chủ trổ tài với môn đệ. Nói chuyện với môn đệ thì chỉ cần đao to búa lớn chứ không cần đúng sai. Nói chuyện với môn đệ thì chỉ cần nói sao cho kêu, cho bay bướm văn hoa chứ không cần một lý luận chặt chẽ. Nhưng thưa giáo chủ, khi nói chuyện với người khác thì nên chú trọng đến sự sơ hở và sai lầm của lý luận.

Vọng Việt vẫn ôn tồn:

- Ta lý luận sai ư? Nàng hãy chỉ cho ta nhé?

- Vũ trụ này chỉ có nàng thôi! Sao mà nịnh nọt ngon ngọt đến thế. Khi vũ trụ mà chỉ có một, thì không là một hiện hữu độc lập đứng ngoài mọi tương quan đó sao? Mà hiện hữu độc lập đứng ngoài mọi tương quan vốn không thực tại.

Vọng Việt không hề lúng túng, vuốt mái tóc nàng, mỉm cười:

- Có chứ, thưa thần nữ! Có cái hiện hữuđộc lập tuyệt đối ở ngoài mọi tương quan so sánh đối đãi: đấy là vẻ đẹp toàn bích và toàn mỹ, đấy là Thượng đế của tâm hồn ta, thần nữ ạ!

Hắn là một kẻ nhồi bóp được nghịch lý mà, Triết Hựu nghĩ. Chàng lại không ngờ trên tình trường, hắn còn là một con cáo già nhiều thủ đoạn ma mị nữa. Em chàng lại là một con nai tơ trên bước đường tình ái cũng như suy tưởnglý luận, thì làm gì thoát khỏi được cái bẫy tròng êm ái đó? Hắn còn một lợi khí nữa là vẻ đẹp nam tính cùng danh vọng. Chẳng thể cứu gỡ được nữa rồi. Cắt đứt tương quan nghĩa là chấm dứt hiện hữu. Đấy là trường hợp của em chàng chứ không phải là Vọng Việt. Nàng ở ngoài tương quan với Vọng Việt, nàng sẽ không sống nổi.

Họ nói chuyện với nhau rất nhỏ, một lúc lại đề cập đến chàng:

- Thế ra em không tìm ra ảnh ư?

- Vừa trở về nhà thì em nghe mẹ kể lại sự xung đột. Ảnh bảo là sẽ bỏ gia đìnhvĩnh viễn ra đi để làm một hoang tử vô quy. Hoang tử vô quy, ôi, biết làm sao gặp ảnh để nói một lời!

Triết Nguyệt lại hỏi Vọng Việt:

- Hình như Triết Hựu không còn thân với anh nữa? Tình bạn cũng đoạn tuyệt luôn?

- Có lẽ vậy. Y chọn con đường vô danh. Nhưng y không hiểu rằng vô cũng là hình thức khác của hữu. Con đường đã đối nghịch thì làm sao còn gặp được nhau như thuở “vô phân biệt” của tuổi thơ?

- Anh ấy sẽ về đích trước anh.

Vọng Việt có vẻ trầm ngâm:

- Ảnh cao thượng và thánh thiện quá. Kẻ còn tìm kiếm. Ta thì dừng lại rồi.

Triết Nguyệt cười rúc rích:

- Dừng lại ở cái địa vị giáo chủ minh triết giáo? Dừng lại ở cái chức hàn lâm đại học sĩ của quốc vương trao? Dừng lại ở nơi tòa lâu đài, bạc tiền, ngựa xe và hầu nữ?

Im lặng.

- Nàng “không thấy” được ta đâu, đừng nghĩ lầm mà trở ngại cho tình yêu thương. Dù sao, ngoài Triết Hựu, ta chẳng còn một người bạn nào! Một người bạn đúng nghĩa: thiện – trí – thức và chân tình.

Y tỏ vẻ cao thượng, chung thủy, tự chủhiểu biết. Ôi! Dối trá đến thế là cùng!

Lại im lặng.

- A! hồi nãy em định gặp Triết Hựu để nói một lời gì?

- Để hỏi rằng trên lộ trình thành tựu đấng ấy, có phải là quay lưng luôn với tình mẹ? Sự khổ đau của người mẹ?

- Nó vượt qua. Nhưng mà lại dung chứa. Đây là sự mâu thuẫn trên sự tướng nhưng lý tánh thì không. Em chưa thể hiểu được đâu.

- Còn Triết Hựu?

- Hiểu.

Hựu quay mặt đi cố tránh nhìn hình ảnh âu yếm giữa hai người, nhưng thật ra là không muốn xác minh một sự thực: tâm hồn trong trắng pha lê của em chàng đã có tỳ vết. Và con người tinh thần của Vọng Việt đã bị hoen ố bởi con người thân xác.

Một xót xa nào đó dâng tràn lên mắt Hựu. Và chàng thấy mình chảy nước mắt. Con người không còn gì đáng tin cậy nữa. Thế giới đã sụp đổ trước mắt chàng. “Không có cái phi thường, chỉ có cái tầm thường thôi sao?” Cái ấy nó ẩn kín ở phần thâm sâu nhất của tự ngã con người, khi duyên ngoại cảnh thì nó hiện hình ra và chi phối mọi lãnh vực sinh hoạt đời sống. Chàng có thể sờ mó được, nắm bắt được, ở nơi đây, ở nơi này…!

Vọng Việt và Triết Nguyệt đã dẫn nhau đi dạo. Hai chiếc bóng quấn quít bên nhau như một tương quan đồng hiện hữu, không có cái này thì không có cái kia và ngược lại! Rồi chuyện gì sẽ xảy ra? Đấy là luân hồi, chàng lẩm bẩm. Đấy là tử sinh, chàng thở dài. Họ đã bị cuốn trôi trong dòng ái dục xấu xahèn mọn. Họ đã buông trôi đời mình, đã thỏa hiệp với ma vương, đã nằm lại và không còn lên đường nữa. Ta chẳng thể như họ.

Hai người tì nữ của Vọng Việt nói chuyện với nhau: câu chuyện về tình ái. Hựu đã không muốn nghe nhưng tiếng nói cứ lọt vào tai chàng. Và chàng cũng tự thú nhận rằng, sự từ chối của chàng không trọn vẹn. Chàng vẫn đồng lõa ngấm ngầm ở phía bên trong. Ta vẫn có một con thú luôn luôn tìm cơ hội để tuôn vọt ra bên ngoài…!

- Từ khi ăn trái cấm đến nay - một người nói - Em cảm thấy mình luôn luôn thiếu thốn. Luôn luôn muốn nếm, muốn sờ, muốn lặp lại cái kinh nghiệm vượt ngoài ngôn ngữ ấy.

- Cho nên khổ đau! - Người khác trả lời.

- Đấy chỉ là lý luận. Hoặc chỉ là kiến thức hoặc kinh nghiệm của người khác. Vệ-đà, Kỳ-na, Phật giáo cũng từng nói như vậy.

- Các truyền thống tâm linh họ nói lên cái sự thực, không phải sao? Sau khoái lạc là đau khổ. Hay nói cho đúng hơn, khoái lạc là hình thức thứ hai của đau khổ. Mặt bên này và mặt bên kia, cực bên này và cực bên kia, đồng thời chúng ở trong nhau, là một. Toàn bộ vận hành của cõi mộng đều là sự đong đưa giữa hai cực, không bao giờ dừng nghỉ ở cái quân bình, cái trung tính. Do vậy, cũng gọi là bất toàn, rỗng không, bất khả đắc, bất khả trụ, bất khả thủ… Sinh và tử là nhịp độ qua lại đều đặn khắp hai chiều kích không thời gian. Minh triết dạy rằng: các hiện tượng ngoại giới hoặc các trạng thái nội tâm đều là cái sinh diệt, như huyễn chứ không phải là cái đời đời, cái vĩnh phúc!

Có tiếng cười lạt.

- Hiền tỷ, em xin nói với hiền tỷ một điều có được không?

- Cứ nói!

- Cái gì mình thật biết thì hãy nói. Không biết hoặc là chưa thật biết thì nên lắng nghe và học hỏi. Kinh điển, sách vở là cái chìa khóa, nhờ đó ta tìm mở kho tàng của chính mình, cánh cửa tâm linh mình. Chẳng bao giờ cái chìa khóa là cứu cánh cả, nó chỉ có giá trị khai mở, dẫn lối. Và con đường, cánh cửa là tự ta lên đường, tìm đến và gõ cửa…

Có tiếng cười lạt khác:

-Phải mà! Nghĩa là em khuyên chị cũng phải biết ăn trái cấm như em? Để khổ đau? Nghĩa là đem thân xác mà thí nghiệm các thỏa mãn thân xác? Đem thân xác mà kinh nghiệm những dơ dáy và uế trược? Ôi, minh triết đã từng dạy rằng, chúng là cái gì mà ta chẳng bao giờ ôm nắm được, thỏa mãn được. Ta sẽ săn đuổi nó hoặc nó sẽ săn đuổi ta chạy khắp cả ba cõi sáu đường. Em ơi, chỉ có kẻ ngu mới làm vậy còn kẻ trí thì không. Kẻ trí thì biết dừng lại, kẻ ngu thì bị cuốn vào dòng…

Triết Hựu hồi hộp lắng nghe và chàng cảm thấy kính phục người chị vô cùng tuy rằng luận cứ của người em không phải là vô lý.

- Hiền tỷ ơi! Hiền tỷ đã không chân thật với lòng mình.

Im lặng.

- Hiền tỷ chỉ đọc trong kinh sách, chưa có lời nào là của chính hiền tỷ. Hiền tỷ luôn luôn dùng cái hiểu biết không phải của mình rồi tạm thời trấn an, ám thị. Không trấn an, ám thị thì chạy trốn, đào tẩu bằng lý luận, kiến thức mà không như thực thấy rõ sự bất an, xung đột, khát vọng thường hằng ở phía bên trong…

Im lặng.

- Em hãy nói nữa đi?

- Hiền tỷ luôn luôn cảm thấy mình bị dồn nén lại. Dù kiến thức về con đường, về chân phúc, về Thượng đế có đầy ắp trong chị thì chị vẫn thấy mình bị dồn nén lại. Và vẫn tò mò, khao khát. Vẫn muốn ăn trái cấm mà vẫn sợ khổ đau, hoặc sợ dư luận, đạo đức, luân lý, tiếng tăm. Hiền tỷ ơi, hiền tỷ sợ bị đẩy ra khỏi thiên đường trong lúc chưa một lần nào hiền tỷ cảm thấy mình thật sự ở trong thiên đường. Nếu Adam và Eva thật sự thấy mình ở trong thiên đường thì chẳng bao giờ họ lại dại dột ăn trái cấm…

Có tiếng thở dài của người chị. Và bên này, Triết Hựu cũng thở dài!

- Thành thử, vấn đề không phải là ăn trái cấm hay không ăn trái cấm, mà vấn đềgiải quyết khổ đau…

- Và là tìm kiếm hạnh phúc nữa chứ?

- Không phải vậy. Giải quyết khổ đau chứ không phải tìm kiếm hạnh phúc. Chị ơi, em xin lỗi chị nhé! Cái gì chị cũng viện dẫn về minh triết, minh triết dạy như thế này, minh triết dạy như thế kia, mà thật sự, chị chẳng hiểu gì về minh triết cả. Chị hiểu minh triết theo truyền thống kinh viện, từ chương, danh và lời - chứ chị chưa hiểu minh triết ở trong sự sống nóng bỏng, hiện tiền, từng tế bào và từng hơi thở…

- Sao em nói nặng lời vậy?

- Chị có giận em không?

- Không. Vì chị muốn học hỏi.

Im lặng.

- Hiền tỷ ơi, em kính trọng hiền tỷ lắm!

- Em hãy trở lại vấn đề đi!

- Dạ. Chị ơi, đặt vấn đề tìm kiếm hạnh phúc là sai.

Tìm kiếm hạnh phúc là ta đã phản bội truyền thống tâm linh giải thoát Ấn Độ. Tại sao vậy? Chị hãy nhìn vào thế gian: Rượu, các chất say cũng hạnh phúc; cờ bạc, những giải trí vô ích, vô bổ cũng hạnh phú; hăng say hoạt động xã hội, chính trị cũng hạnh phúc; ái ân, tình tự cũng hạnh phúc; ngủ yên, ăn ngon, mặc sướng, xe cộ, võng lọng, tiền tài, địa vị, danh vọng cũng hạnh phúc; vào non cao rừng vắng cũng hạnh phúc; ngồi một mình với tâm an tĩnh, vắng lặng cũng hạnh phúc… Tất cả cái ấy đều là quan niệm hạnh phúc của người đời, theo mỗi hạng người cả đấy chứ?

- Em nói rõ hơn?

- Bởi hạnh phúc của mỗi người vốn khác nhau. Hạnh phúc của nhà thơ là nhìn ngắm mây trôi, nguyệt tà, hoa nở... Hạnh phúc của đạo sĩ là sống đời tịch mịch, thanh tịnh. Hạnh phúc của tuổi trẻhoạt động, là tình ái, là mạo hiểm, là phong sương gió bụi... Hạnh phúc của kẻ đa dục, vật chất, thân xác là rượu nồng, dê béo, gái đẹp… Do vậy, chị ơi, do cái hạnh phúc của người này chẳng phải là của người kia nên bắt người tuổi trẻ mà sống đời của vị đạo sĩ thì chắc họ khổ đau lắm. Và trái lại.

Chị ơi! Chỉ cái việc tìm kiếm hạnh phúc thôi mà thế gian đã hiện hữu, nào là vô thần luận, hư vô luận, khoái lạc chủ nghĩa, cá nhân chủ nghĩa, duy lý, duy danh, duy thực, duy nghiệm, duy tâm, duy vật… Ai cũng muốn bắt mọi người đi theo cái quan niệm hạnh phúc chủ quan của mình. Ôi! Hỗn độn ở đấy. Đảo điên ở đấy. Chiến tranh ở đấy. Máu lệ ở đấy…!

Chị ơi! Cái sự thật hầu như cưỡng lý, nghịch lý này mà nó vẫn tồn tại từ ngàn xưa đến ngàn sau trên sân khấu cuộc đời: Đời sống sở dĩ bị đánh mất hạnh phúc, không phải vì không có ai lo cho hạnh phúc con người, mà vì có quá nhiều người lo cho hạnh phúc con người…

Chị ơi! Đấy không phải là sự thật cười ra nước mắt sao? Cái sự thật mình không còn dám tin là sự thật nữa. Sao con người lại ngu xuẩn đến độ: bắt tôi sống theo quan niệm hạnh phúc này trong lúc hạnh phúc tôi là cái khác? Xã hội cũng giải quyết ngu si như vậy, triết học cũng giải quyết tối tăm như vậy, tôn giáo cũng giải quyết điên rồ như vậy…!

Chị ơi! Đừng bao giờ khởi lên một câu hỏi tương tự như vậy - làm thế nào để đạt được hạnh phúc? Mà chính khi giải quyết được khổ đau thì hạnh phúc sẽ hiển lộ. Cái hạnh phúc này sẽ không còn tên gọi nữa, tạm gọi là chân phúc…!

Đây là tư duy biết vượt ra ngoài tư duy! Thật kỳ lạ. Một người tỳ nữ mà sự lãnh hội đến dường ấy ư? Không những chỉ lãnh hội qua kiến thức mà còn cả tâm chứng nữa. Triết Hựu bần thần suy nghĩ. Chàng nhớ từ lâu lắm, chàng và Vọng Việt có thảo luận về vấn đề này. Cuộc thảo luận không đi đến đâu sau khi dẫn nhau đến kết luận như vậy. Hôm đó, Vọng Việt đã cười xòa:

- Này thiện hữu ơi! Nếu mỗi người có một hạnh phúc chủ quan riêng thì vấn đề khổ đau cũng tương tự. Tôi giải quyết khổ đau của tôi theo hiểu biết của tôi, sở thích của tôi, kinh nghiệm của tôi, sở trường của tôi - can cớ gì mà các anh xen vào? Anh chỉ hợp lý với riêng anh thôi.

- Vậy giải quyết khổ đau cũng sai ư?

- Giải quyết khổ đau là phản ứng, là thái độ tự phát của mỗi người, làm sao lại gọi là sai lầm được. Anh kia uống rượu quá độ sinh ra nôn mửa, đầu váng mắt hoa, lần sau anh uống ít lại - Đấy là lối giải quyết khổ đau của anh. Chúng ta thao thức về tuyệt đối, về Thượng đế, rồi không mỏi công săn cầu, tìm kiếm - đấy cũng là một lối giải quyết hạnh phúc theo quan niệm của chúng ta…

- Có phân biệt cao thượng và hạ liệt ở đây không?

- Không thành lập vì khổ đau vốn bình đẳng.

- Một người làm việc thiện để dành phước phần cho mai sau - là lối giải quyết hạnh phúc của họ. Một kẻ nghèo đói, túng thiếu, sanh tâm trộm cắp để chi dùng - đấy cũng là cách giải quyết khổ đau của hắn ta!

- Có giá trị thiện ác ở đây không?

- Khổ đau vốn bình đẳng nên đạo đức cũng không thành lập.

- Cho chí một kẻ sanh tâm tà dâm vợ người cũng là cách giải quyết khổ đau…

- Đúng vậy, ở đây, luân lý cũng không được thành lập.

- Nói tóm lại, một triệu người có một triệu khổ đau khác nhau thì phải có một triệu lối giải quyết khác nhau… Than ôi! Bóng tối, địa ngục, bi thảm cũng do vậy mà phát sanh - mà nguy nga, hoằng viễn, muôn màu muôn sắc cũng từ đó khởi phát. Tử có thì sinh cũng đồng hiện hữu.

- Dĩ nhiên cũng phải có người tìm ra được lối giải quyết phổ biến, nền tảng, đã tìm ra được mẫu số chung giữa những cái thiên sai ngàn khác chứ? Vô lẽ có riêng chứ không có chung? Có dị chứ không có đồng?

- Thiện hữu ơi! Thiện hữu có khảo sát lại cái kiến thức của tôi không đây? Cái biết của tôi cũng giống với cái biết của thiện hữu mà!

- Hãy nói đi! Chúng ta nên tìm kiếm cùng nhau.

- Thiện hữu cũng đã hiểu rằng Phật giáo và Kỳ-na giáo đã tìm ra mẫu số chung ấy, cái chung ấy, cái đồng ấy, cái một ấy.

- Đúng vậy, nó chính là ái dục. Nguyên nhân của vô lượng khổ đau sai khác đều do tâm ái dục không chịu ngừng nghỉ. Nhưng than ôi, đó cũng chỉ là một lối giải quyết của Phật giáo, của Kỳ-na giáo thôi. Nghĩa là mới tìm ra được cái chung của cái riêng chứ không thể tìm ra cái chung của cái chung! Và rồi, vấn đề vẫn còn nguyên vẹn ở đấy, chưa đi được bước nào! Và rồi, trên thế gian, mỗi người cứ giải quyết khổ đau theo cách thức của người ấy, theo cái chủ quan của người ấy. Chuyện gì sẽ xảy ra? Đó là tranh luận, là xung đột, là chiến tranh, là nước mắt. Cái đã xưa nhưng vẫn là cái rất mới: khổ đau vẫn hiện hữu bất động, vô địch và bất khả xâm! Vọng Việt ơi! Bạn tính lẽ nào, hãy giúp tôi chứ?

Vọng Việt cười tư lự:

- Tôi cũng chỉ nghĩ được có thế, thiện hữu ạ!

- Vậy thì vấn đề bạn nêu ra từ đầu chưa xê dịch được một phần mười sáu ly!

- Thế là đã khá lắm - Vọng Việt cười to - Vì từ xưa đến nay, chưa ai xê dịch được nhiều như thế!

- Vậy ra, chúng ta tuyệt vọng hoàn toàn ư? Vấn đề là sai ư? Giải quyết là sai ư?

- Đấy. Đấy. Vấn đề! Vấn đề! Giải quyết. Giải quyết! Khổ đau ở đấy!

Triết Hựu còn nhớ là sau khi Vọng Việt nói như vậy chàng đâm ra bối rối. Tuy thế, chàng lại dùng lý luận:

- Bạn ơi! Dù thế nào bạn cũng không vượt qua được bạn đâu. Nhận thức chính là giải quyết! Bất lực, im lặng, tuyệt vọng hoặc không giải quyết cũng là một hình thức của giải quyết thôi!

Đến lượt Vọng Việt bối rối, chàng tiếp:

- Hạnh phúchình thức khác của khổ đau. Giải quyết khổ đau cũng khổ đau. Không giải quyết khổ đau cũng khổ đau. Từ xưa đến nay, và còn mãi mãi sau này một hiện hữu duy nhất thôi: Khổ đau!

Vọng Việt cười lớn, đồng tình:

- Phải rồi. Vì khổ đau là chân lý!

Cuộc thảo luận đã đi đến chỗ cuối cùng, cái hố thẳm, cái đỉnh cao vô lượng hay vực thẳm không đáy thì cũng vậy. Mà than ôi! Cái cuối cùng cũng chính là cái đầu tiên: khổ đau. Không trách gì đức Gotama đã nêu ra chân lý thứ nhất là khổ đếtượng trưng cuộc sinh tử và sự tương quan phát sanh bằng cái vòng tròn vô thỉ vô chung. Làm sao để vượt ra? Mà vượt ra là vượt ra đâu? Bế tắc.

Triết Hựu nằm suy nghĩ lan man như vậy. Đã biết là suy tưởng không đi đến đâu mà vẫn suy tưởng. Suy tưởng cũng là một khát vọng? Cũng là hình thức khác của khổ đau thôi. Bế tắc!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14300)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11839)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14349)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13267)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14630)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25218)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27859)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26335)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17223)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15908)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17128)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24890)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21948)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16166)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21718)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16777)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14663)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18766)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14772)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16605)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18008)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12916)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14937)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12694)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13883)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28005)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27168)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14342)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20937)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24171)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28661)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14730)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13281)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16442)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27222)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12015)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16070)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21463)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12373)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant