Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

06. Gặp Lại Sa-môn Đầu-đà

30 Tháng Mười 201200:00(Xem: 6717)
06. Gặp Lại Sa-môn Đầu-đà
HÀNH HƯƠNG TÂM LINH
Tác giả: Minh Đức Triều Tâm Ảnh


GẶP LẠI SA-MÔN ĐẦU ĐÀ

Đi? Nhưng đi đâu? Một câu hỏi lóe lên làm cho Triết Hựu lúng túng. Làm thế nào để có đời sống và cơm áo? Rồi mình sẽ làm gì? Rồi mình sẽ tư tưởng ra sao? Điều mà chàng tưởng là đã giải thoát rồi, nhưng khi bắt gặp thực tế, với hiện hữu tương quan, dính liền với mọi sinh hoạt xung quanh, chàng lại bị trói chặt lại y như cũ - nghĩa là vẫn còn những cái gọi là ràng buộc, hữu hạn, bóng tối và khổ đau.

Triết Hựu bần thần dừng chân lại. Sự giải thoát không phải chỉ giản dị như trong tư tưởng thôi, như tư và tưởng thôi - mà là một cái gì khác thế - một cái gì được thể hiện rỗng rang, tự dovô ngạitrong đời sống cụ thể - một cái gì sờ nắm được, ngửi được, tiếp xúc được như sự vật, thân xác, chén cơm và hơi thở nồng nặc của mọi người. Kẻ giải thoát họ làm gì? Họ uống ăn sinh sống ra sao để khỏi hệ lụy, mưu toan và thúc phược? Ngồi một chỗ - giải thoát toàn diện, vô duy - đợi sự chết đến lôi đi một cách bình thản? Có lẽ không phải thế. Là một cái gì tối thượng, nhiệm mầu hơn nhưng không khác lắm với cái bây giờ, chàng nghĩ.

Bước chân vô định dẫn chàng đến một đám đông. Người ta vừa nghỉ ngơi sau một đám rước các ngẫu tượng. Người ta tìm kiếm gì ở phía đằng sau hai tượng trưng âm dương linh thánh của thần Shìva? Những khuôn mặt đầy no thỏa mãn kia có đạt được một phần mười sáu bình an và chân phúc? Những tiếng: “aum, aum, aum...” từ sông Gangµ vọng lên - vọng lên từ ngàn đời có tẩy uế được tội lỗi? Đấng Krishna có hiện hữu đâu đây, trong thân xác trần tục nào - để nhìn ngắm công trình của Brµhma đã đến hồi rối ren và và ảo diệu. Phải chăng, con đường nào rồi cũng dẫn về nhất thể? Con đường hành động (karma yoga) không đã là một hình thức đại ngã đó sao? Con đường chiêm ngưỡng thờ phượng (bhakti yoga) không đã là hình thức vong ngã đó sao? Con đường trầm tư, thiền định (inana yoga) không đã từng cô lập mình trong một thế giới cách biệt, riêng tư, khoanh tay ở ngoài cuộc đời đó sao? Nó có thể là vong ngã hoặc đại ngã - con đường trầm tư, thiền định này - nhưng cả hai đều chẳng phải là chân phúc.

Triết Hựu uể oải lắc đầu bởi những câu tự vấn, tự giải liên tiếp tuôn tràn ra. Phải có thầy. Phải có một đấng Guru cho tâm hồn mới mong dẫn lộ cho ta từng bước một. Lý trí, kiến thức, kinh điển, hiểu biết chẳng dẫn ta đi đến đâu. Chúng đi vòng quanh!

Triết Hựu định quay lưng tránh một cuộc tranh luận giữa đường, nhưng có một giọng nói quen thuộc làm chàng chú ý: giọng nói của vị sa-môn đầu-đà. Một đám đông thanh niên đang vây lấy cội cây nhỏ.

- Chư hiền hỏi bần tăng thế nào là Thượng đế, bần tăng xin thưa là bần tăng không biết gì về ngài. Chư hiền hỏi bần tăng thế nào là nhất thể, bần tăng cũng xin thưa là chưa lần nào bần tăng tìm hiểu nhất thể để làm gì, nó có ích cho bần tăng ra sao. Đấng hằng cửu là ai? Tồn tại thế nào? Ngài hiện thân nhập thếy báo, chánh báo hay vô sở bất tại? Có một điều, phải rồi, có một điều duy nhất thôi, là bần tăng tu hành để thoát khổ, để thoát khổ và giác ngộ đời sống - còn ngoài ra - xin thưa là bần tăng không biết gì đâu.

Triết Hựu đã đứng chen chân trong đám đông. Và nhìn vị sa-môn đầu-đà, chàng nghe lòng mình dâng lên một cảm xúc vô hạn.

Vị sa-môn nói xong, đám đông thanh niên bà-la-môn chợt cười rộ. Một người hỏi:

- Tôn giả không biết tại sao mình xuất gia làm sa-môn Thích tử? Lại không biết cả mình đang nói gì và nói với ai?

- Chư hiền – vị sa-môn chậm rãi đáp - Quả thật vậy, giới vọng ngữ là giới thứ tư mà một người cư sĩ áo trắng phải hành trì, nếu muốn được gọi là một Phật tử chơn chánh. Bần tăng là kẻ đã phát nguyện thọ trì những giới luật thù thắng hơn thế nữa. Chư hiền không tin ư?

- Chúng tôi xin rửa tai để nghe lời tôn giả.

Đôi mắt của vị sa-môn già chợt lóe sáng lên, đảo quanh một vòng - rồi gật đầu:

- Chư hiền, quý hóa thay, bần tăng sẽ nói. Chư hiền bảo bần tăng xuất gia nhưng bần tăng là cái gì mới được chứ! Nếu thân xác là bần tăng thì thân xác ấy là cái vô tri, nếu đắp y mang bát cũng không thể gọi là “xác chết xuất gia” được. Cái thân xác này thì, một bà-la-môn hay một thủ-đà-la thì cũng không khác mấy. Còn tư tưởng - thì cái tư tưởng ấy niệm niệm sinh diệt... Niệm này là bần tăng hay niệm nọ là bần tăng? Chư hiền ơi, thú thậtbần tăng đã bất khả tri. Đã không biết ngã thì làm sao biết về ngã sở? Suy lý ra thì quả thật, bần tăng nói mình không biết gì, đâu phải là lời nói dối?

Có một thanh niên bà-la-môn tức giận, nhưng bạn y đã lấy tay ngăn lại, hỏi tiếp:

 - Cái thân xác thì ông Cù-đàm hoặc đống rác cũng giống nhau. Đồng ý. Rig-Veda dạy rằng: ý thức, ngươi phải im đi thì Atman mới hiển lộ. Nhưng Minh triết giáo chúng tôi nói rõ ràng hơn: Đấng ấy là thân xác và tư tưởng.

- Còn con người?

- Cũng thân xác và tư tưởng.

- Có gì khác nhau không giữa Đấng ấy và con người?

- Có chứ. Đấng ấy trong sạch, vắng lặng, thanh tịnh, sáng láng và thánh thiện. Đấng ấy là cha muôn loài, là bậc sáng-hóa-chủ, đại tự do, đại giải thoát, đại tự chủ, đại tự tại. Còn con ngườinhiễm ô, tục lụy, ồn ào, não động, tối tăm, nô lệ, tử sinhtội lỗi.

Vị sa-môn chắp tay lên trán nói:

- Cao thượng thay Đấng ấy. Vĩ đại thay Đấng ấy. Phúc lành thay Đấng ấy. Bần tăng chúc chư hiền lên đường để đến với ngài.

- Sao tôn giả không cùng lên đường với chúng tôi? Giáo lý Minh triết giáo và con đường nhập thể vô thượng?

- Vì bần tăng là kẻ tầm thường nên chỉ xin làm những việc tầm thường trong cuộc đời tầm thường.

- Tôn giả chịu an phận, đắm mình trong chốn bùn nhơ thế tục mà không chịu vươn ra cõi ngoài bằng phạm hạnh cao thượng ư?

- Cõi ngoài thì cao siêu quá. Cõi ngoài là ở ngoài cuộc đời chứ không phải ở trong cuộc đời. Bần tăng với thân xác và tư tưởng hữu hạn - ở trong cuộc đời - nên chỉ xin trọn vẹn, phận mệnh, tính thể với những gì hữu hạn.

- Chẳng khác gì một kẻ đang sống đời thân xác. Té ra tôn giả chỉ ngụy trang là sa-môn thôi?

- Bần tăng đang sống đời mở rộng! Chư hiền, bần tăng không có sống đời để đi đến cõi ngoài, cõi vô tự tính, cõi “chẳng liên hệ gì đến trần gian” này, mà quả thật, bần tăng chỉ sống đời mở rộng để đón nhận hài hòa muôn vạn ân sủng của cuộc đời.

Cuộc đối thoại đến đây đã làm cho đám thanh niên bà-la-môn không còn chịu đựng được nữa.

- Vậy ra tôn giả là một tên “khất cái” vô loại - một người thanh niên mỉm nụ cười độc địa nói - tôn giả sống trên tài sản và máu xương của kẻ khác. Sống và hưởng thụ. Sống và tiêu cực. Sống và thủ lợi. Sống và vị ngã. Sống và tham dục. Đấy có phải là sở tri, sở hành, sở đắc của những sa-môn Thích tử?

- Một Đấng-biếng-lười - bạn y tiếp với nụ cười khinh mạn - Một bậc thất nghiệp cao thượng!

- Một thân xác vật chất được quàng chiếc áo tinh thần, phạm hạnh để ngụy trang che mắt mọi người. Thượng đế sẽ không dung thứ cho những kẻ mạo danh là con cái của ngài như vậy.

- Một du thủ vô công rỗi nghề đang thực hành cái vô công rỗi nghề của y: hạnh “du thủ”. Hạnh du thủ phải chăngmật hạnh của tôn giả?

Tiếng cười đắc thắng, ngạo mạn của đám thanh niên môn sinh Minh triết giáo vọng vào tai Triết Hựu làm chàng lùng bùng nhức nhối khó chịu. Chúng đã sống đời xa hoa, thân xác lại dám chỉ trích kẻ sống đời tinh thần phạm hạnh bằng lý luận tinh thần phạm hạnh. Thật chẳng có nghịch lý nào nghịch lý hơn thế nữa. Phải mà! Giáo chủ chúng cũng đã không từ bỏ đời phạm hạnh để tranh danh đoạt lợi như kẻ thế tục đó sao? Những lý luận về cái gọi là cầu an, tiêu cực, thụ hưởng - quả thậtấu trĩ và thối tha không chịu được. Hay chúng đã thật sự bị sa-tăng cám dỗ? Sa-tăng đã đầu độc rỉ tai chúng nó - là loại khỏi cuộc đời những hình ảnh tâm linh, tự do và vô dục - để cho thế gian phóng túng vô độ, giết người, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ, ích kỷ, tham lam, giật giành, vật chất, nhục thể…? Minh triết Vệ-đà, Áo-nghĩa-thư có dạy cho chúng như vậy đâu. Trái cây ngon ngọt của Adam và Eva là nọa tính từ uyên nguyên, từ đó lưu đày xuống trần gian thống khổ - thì không ai mà không hiểu rằng: Sa-tăng là ông tổ của duy vật luận - từ đó đánh mất thiên đàng. Không ăn trái cấm là chối từ sa-tăng và duy vật, là đi ngược dòng nghịch lưu, là hoàn nguyên bản mạt, là quy hồi nhất thể, là về bên chân Chúa. Ăn trái cấm là bắt tay với quỷ dữ, đồng lõa với ma vương để gieo rắc tai họa, lầm than và bóng tối lên trần gian. Chiếc thuyền Noe có còn không để chúng nó thấy rõ cơn phẫn nộ của Thượng đế? Tất cả chỉ là vật chất và thân xác, không có kiếp này và kiếp kia, đấy là lời rao của quỷ. Và đấy cũng là tư tưởng dẫn đạo cho những đời sống phi nhân, vô đạothú vật.

Cơn phẫn nộ của Triết Hựu chẳng khác gì cơn phẫn nộ của Thượng đế. Chúng đụng chạm đến cái thánh thiện bên trong chàng, đụng chạm đến nhân cách vời vợi của vị sa-môn - là chúng đã khai chiến sinh tử với chàng rồi. Bao nhiêu kiến thức mang theo từ cẩm nang của Thượng đế, chàng quên hết, chỉ còn nghe một tiếng rống duy nhất của con sư tử bên trong: “Hãy nhai nuốt lý luận của bọn chúng”. Thế là chàng chững chạc, hiên ngang, xô vẹt đám thanh niên, bước vào…

Triết Hựu cúi mình thật thấp đảnh lễ vị sa-môn - mà chàng vẫn đinh ninh là đấng Guru duy nhất của mình, là Người-xin-lửa trong đêm.

- Xin đức thầy cho phép con tranh luận với quý ngài môn sinh minh triết giáo đây về minh triết. Xin đức thầy cho phép con dùng đôi cánh tay của thần Sh×va để bẻ gãy lý luận của sa-tăng, của các bậc kim tiền này. Bạch đức thầy sa-môn! Lũ chúng chẳng hiểu gì minh triết, lại chẳng dám làm đồ đệ của sa-tăng - vì sa-tăng đã dám công khai khiêu chiến với Thượng đế, tách đôi vũ trụ ra làm hai - còn chúng thì ở ẩn, giấu mặt ở bên sau Thượng đế, sống trong ân sủng của ngài rồi phản bội ngài, sự phản bội còn đê hạ hơn Giu-đa đối với Christ, hơn Devadatta đối với Gotama. Minh triết là sống đời xa hoa, lòe loẹt, thắt đai tía, đai hồng, áo mão sặc sỡ, vợ con thê thiếp, là kẻ cầm muỗng ở các chiếu tiệc tùng, là võng lọng, ngựa xe, là cừu dê, là tôi tớ. Minh triết của chúng là vậy. Còn ngôn ngữ chữ nghĩa kia, chỉ là lớp trí thức cặn bã, thời thượng, rơm rác, uế trược, đã bị quẳng ra bãi hoang, xông lên mùi xác chết đã mấy ngàn năm chôn lấp lại… Mỗi danh từ, ngữ ngôn của chúng sử dụng là mỗi con rắn độc hai đầu đối với cuộc đời. Chúng lý luận với đức thầy là như nhổ nước miếng giữa hư không, như tung bụi trước đầu gió ngược...

Triết Hựu say sưa nói, quay lưng với đám thanh niên và thái độ thật là vô cùng lễ độ đối với vị sa-môn già lúc ấy đang trong tư thế kiết già thanh tịnh. Đám thanh niên đã đổ xô lại, vung tay múa chân, mắt trợn ngược, chân mày xếch lên, răng nghiến lại - nhưng quả bọn chúng không phải là kẻ vũ phu!

Một người thanh niên chững chạc, bệ vệ, có lẽ là huynh trưởng trong bọn, trang nghiêm cúi đầu chào Triết Hựu:

- Tôn huynh đã mạt sát chúng tôi quá thậm tệ.

Những lỗi lầm của huynh đệ chúng tôi chưa đến nỗi phải nhận chịu quá nhiều bóng tối, sự nguyền rủa đến như vậy. Quốc độ này, truyền thống minh triết không có chỗ cho những kẻ tiểu nhân ác khẩu, nhưng cho phép các cuộc tranh luận hiên ngangthẳng thắn giữa nhau. Tôn huynh có thể dạy cho chúng tôi những lời có tính cách đứng đắn hơn, có văn hóa hơn, quân tử hơn, cao thượng hơn, được chăng?

Triết Hựu thẹn mặt liếc nhìn người thanh niên. Phải rồi. Trong bóng tối, có ánh sáng. Thần Vichnou cũng có mặt ở đây, trong việc bảo tồn tạo hóa.

Triết Hựu quay qua vị sa-môn đầu đà chờ đợi.

Bây giờ, vị sa-môn mới bắt đầu mở mắt, im lặng nhìn quanh một lượt, chậm rãi khoác bình bát lên vai, cầm chiếc gậy trong tay, đứng dậy:

- Xin ăn bần tăng đã có bát gia truyền của đức Phật. Bước đi, bần tăng đã có đôi chân già nua trần tục. Hiểu biết, bần tăng đã có trí-vô-tri vay mượn của càn khôn. Chư hiền! Bần tăng không thấy thiếu thốn gì trên trần gian. Người tuổi trẻ, bần tăng không thấy cần thêm gì trên trần gian. Bần tăngcụ túc tỷ-kheo. Cụ túc tỷ-kheo là tên gọi của bần tăng. Kính chào và tạ ơn tất cả các người tuổi trẻ!

Nói xong, vị sa-môn hướng theo con đường lớn, bước đi.

Đám đông lại được dịp nhạo báng Triết Hựu.

- Truyện kể rằng: trong vườn chơi của Thượng đế có một loài bò bụng to được sủng ái. Cóc kia thấy vậy, về hạ giới tu hành, hít hơi phình bụng hy vọng thành bò. Ngàn năm sau y đến chầu Thượng đế và xin được vào ở trong vườn chơi của ngài. Thượng đế ngạc nhiên hỏi:

- Ngươi là cóc mà!

- Muốn thành bò có khó gì, chỉ cần hít hơi, phình bụng thôi. Ngài hãy xem.

Thế rồi cóc phình bụng lên. Thượng đế cười rồi phán:

- Bụng ngươi to thì to thiệt đấy. Nhưng ngươi có phình bụng đi nữa cũng chỉ là “loài cóc bụng to thôi”, chẳng phải là bò!

Thế rồi cóc bị đuổi xuống trần gian!

Lại có tiếng cười phụ họa:

- Đấy là quyển thượng, trang 7, dòng 15, tiết 1 - quyển hạ còn chép tiếp rằng: Sau đó, cóc thất vọng, qua xin làm tôi tớ bộ hạ sa-tăng. Sa-tăng bảo:

- Ngươi tưởng làm tôi tớ của ta dễ lắm sao? Muốn làm tôi tớ ta thì không được hít hơi, phình bụng, rống to mà phải ngậm miệng, cắn răng lại.

Cóc nghe lời, một ngàn năm tinh tấn hành theo hạnh ngậm miệng, cắn răng.

Gặp sa-tăng, sa-tăng bảo:

- Ngậm miệng, cắn răng thì được rồi, nhưng trong hàng tôi tớ nhà ta chẳng có đứa nào là cóc cả. Ta không nhận.

Một thanh niên khác chợt “chậc, chậc” lưỡi rồi gật đầu đầy vẻ hiểu biết:

- Hèn gì, vĩnh kiếp nay cóc chỉ còn biết ngậm miệng cắn răng thôi! Phình bụng to cũng bị đuổi, xẹp bụng lại cũng bị đuổi. Ôi! Cóc ôi! Khổ thay!

Triết Hựu nghe râm ran và lùng bùng trong lỗ tai. Chúng nó cũng độc địa, thâm trầm, sâu sắc lắm chứ không vừa đâu. Chàng đã bị hạ phong rồi, khi xuất chiêu đầu tiên. Mũi tên đã lìa khỏi cung rồi, chẳng thể nắm lại. Phải nắm lại. Phải nắm lại mới là bàn tay đại xạ thủ. Làm một con cóc cắn răng ngậm miệng cũng được chứ không sao. Và chàng lại nghe bên trong tiếng cừu non nói dịu dàng: “Hãy nín, hãy nín.”

Khi chàng từ giã đám đông, thất thểu ra đi, thì hai môi đã bị hàm răng cắn chặt đến rướm máu. Chàng biết là chàng vừa chiến thắng trong thất bại.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14301)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14559)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11840)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14351)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13268)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14631)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12638)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25227)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27861)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26336)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17225)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16521)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15910)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22129)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17128)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24895)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 21950)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19055)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16167)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21719)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16779)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14664)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16697)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25025)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18768)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21195)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14773)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14370)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16608)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18010)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12917)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14938)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12697)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13884)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14597)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28009)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27174)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14345)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20943)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14666)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24172)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28664)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14731)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13282)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16442)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27225)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12018)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16071)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21469)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12374)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant