Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 05: Pháp thanh tịnh giải thoát

13 Tháng Mười Hai 201200:00(Xem: 9679)
Chương 05: Pháp thanh tịnh giải thoát

CỬA VÀO TỊNH TÔNG

Pháp sư Tịnh Không giảng
Cư sĩ Ngô Chân Độ ghi lại
Việt dịch: Thích nữ Viên Thắng - Hiệu đính: Định Huệ

Chương 5

Pháp thanh tịnh giải thoát


1. Xa lánh nơi ồn náo

Đức Phật dạy chúng ta tránh bớt những chốn ồn náo, nếu bạn thích sống ồn náo thì hãy nghĩ xem tâm bạn làm sao định được? Những điều Phật ngăn cấm, không cho chúng ta làm đều là vì làm chướng ngại định tuệ. Cho nên, Đức Phật dạy người tu hành cần phải ở nơi vắng vẻ, hoàn cảnh càng yên tĩnh thì càng tốt; đó mới thật là “thêm một việc không bằng giảm một việc, giảm một việc không bằng vô sự”. Vô sự là tương ứng với đạo. Đạo chính là định, tuệ.

2. Ít muốn biết đủ

Trong cuộc sống thường ngày, Đức Phật dạy chúng ta phải biết đủ. Người biết đủ thì thường an vui, phải bỏ đi ý nghĩ ham muốn, mong cầu. Bởi vì ham muốn, mong cầu là căn bản luân hồi trong sáu đường. Ý nghĩ này không đoạn được thì nó càng tăng trưởng rất khó thoát khỏi luân hồi trong sáu đường. Vì thế, thân tâm chúng ta phải thanh tịnh, hoàn cảnh cũng phải thanh tịnh; đây mới là trợ duyên rất tốt.

Chúng ta dùng phương pháp nào để đoạn trừ vọng tưởng? Điều này rất quan trọng, vọng tưởng là gốc rễ của luân hồi trong sáu đường, là gốc rễ của ba đường ác. Tông Tịnh Độ dạy phương pháp niệm Phật, chúng ta không có cách nào mà không suy nghĩ, ý nghĩ tự nhiên nó đến, không suy nghĩ cũng không được, dừng lại không được, rốt cuộc vẫn nghĩ. Đức Phật biết được điều này là tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay. Vậy chúng ta phải nghĩ điều gì? Phải nghĩ đến Phật, nghĩ đến kinh, học kinh thuộc lòng, thường suy nghĩ đạo lý trong kinh đã dạy, phải nghĩ như thế mới tốt; hoặc nghĩ trong kinh Đức Phật dạy thế giới Tây phương Cực Lạc y, chánh trang nghiêm, như thế cũng tốt.

Trong kinh Đại thừa thường nói: “Tất cả pháp từ tâm tưởng sinh”. Chúng ta thường nghĩ tưởng về thế giới Cực Lạc thì cảnh giới này sẽ biến thành thế giới Tây phương Cực Lạc; thường nghĩ về Phật A-di-đà, thân hình chánh báo này sẽ biến thành Phật A-di-đà. Điều này rất có lý, không nên nghĩ sai, nghĩ sai thì hỏng rồi! Thấy sai, nghĩ sai thì quả báo thật không lường được.

3. Lánh xa danh lợi

Đức Phật dạy thời kỳ mạt pháp, hay nói cách khác là thời đại ngày nay của chúng ta, có một số Bồ-tát không có trí tuệ, những Bồ-tát này bao gồm Bồ-tát xuất giatại gia. Hiện nay, thông thường chúng ta thọ giới Bồ-tát rồi đều làm Bồ-tát hữu danh vô thực, lại đi lập đạo tràng. Trong đạo tràng náo nhiệt, ngày ngày làm Phật sự, gọi là “hoằng pháp lợi sinh”.

Chúng taĐài Loan cũng thường nghe nói “mở tiệm Phật”, nghĩa là lập đạo tràng, đem nó làm doanh nghiệp để kinh doanh, đây gọi “mở tiệm Phật”. Đức Phật nói người này là “Bồ-tát ngu si”. Họ làm sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh với mục đích là gì? Mục đích là có lợi, kiếm được nhiều tiền; hoặc là tín đồ cúng dường. Họ dùng nhiều cách, miễn tiền ngày càng nhiều thì càng vui mừng hớn hở; nếu không có tiền thì họ buồn rầu. Người có tâm như thế mà làm Phật sự trong Phật giáo, thậm chí thuyết pháp cho người đều là lỗi lầm, đều là tạo tội nghiệp.

Huống gì lại còn dùng nhiều thủ đoạn lôi kéo bạn bè, tín đồ để thuộc về mình. Điều này chưa kể, lại còn bảo chúng xuất giachúng tại gia phải cung kính ta, cúng dường ta, đối với ta phải tin tưởng tuyệt đối. Đức Phật bảo những Bồ-tát ngu si này vì tài lợithuyết pháp cho mọi người, nếu khôngtài lợi thì sinh tâm mỏi mệt; ở những nơi không có lợi dưỡng hay cúng dường ít thì họ không vừa lòng xứng ý, vì cảm thấy nơi đây chẳng có mùi đạo, lần sau ta không đến nơi này nữa.

Người luôn mong cầu cúng dường, muốn người khác hầu hạ, muốn mọi người tôn trọng, họ thích làm những việc kỳ lạ. Xưa nay mọi người thường nói: “Hòa thượng không làm việc lạ, cư sĩ không đến lễ bái”. Thực sự, họ chẳng làm lợi ích cho chúng sinh cũng không giúp chúng sinh thoát sinh tử ra khỏi ba cõi, và cũng không thể giúp cho chúng sinh thay đổi hoàn cảnh cuộc sống hiện tại; đây là Bồ-tát ngu si không có trí tuệ, chỉ tạo tội nghiệp, quả báo sẽ đọa trong ba đường ác như Đức Phật đã nói.

4. Thuyết pháp tâm không mong cầu

Đức Phật dạy rõ ràng trong kinh, hễ người nào có tâm mong cầu, cho dù thuyết pháp cho chúng sinh nhưng pháp đó cũng không thanh tịnh, pháp này thật sự được giảng không đúng pháp, đã nói “không đúng pháp” tức là sai với kinh điển, là họ giảng sai, không đúng ý của Phật, “nguyện hiểu nghĩa chân thật của Như Lai”, còn họ thì “hiểu sai nghĩa chân thật của Như Lai”. Tội nghiệp này rất nặng.

5. Thuyết pháp không có tâm tham ô

Tuyệt đối Đức Phật không nói người có tâm tham ô mà giáo hóa chúng sinh được thành tựu, tự mình không độ mình được, làm sao độ người khác? Đức Phật nói tham là chỉ cho tham, sân, si. Ô là chỉ cho ô nhiễm. Hôm nay, tâm lý của chúng ta bị ô nhiễm, tinh thần bị ô nhiễm, tư tưởngkiến giải bị ô nhiễm. Bản thân bị ô nhiễm nghiêm trọng như thế, làm sao giúp đỡ người khác?

6. Không lấy sự tôn trọng, cúng dường, cầu thân an lạc làm sự lợi ích

Đức Phật không nói sự tôn trọng, cúng dường, ham muốn hưởng thụ năm dục, sáu trần; chẳng những trong kinh Tiểu thừa không có mà trong kinh Đại thừa cũng không. Huống gì, chúng ta dùng nhiều thủ đoạndối trá để đạt được lợi dưỡng; điều này dứt khoát Đức Phật không cho phép. Tuyệt đối chúng ta không nên làm những việc này. Chẳng những không làm mà trong ý nghĩ cũng không khởi tham lam bất chánh. Vì sao? Vì chúng taý nghĩ tham thì chắc chắn không được vãng sanh; cho dù, một ngày chúng ta đọc một trăm bộ kinh, niệm một trăm vạn lần danh hiệu Phật, cũng là vô ích. Người xưa dạy: “Niệm khan cổ họng cũng uổng công”. Chúng ta cho rằng mình được vãng sanh chăng?

7. Lấy việc tụng kinh niệm Phật để hàng phục vọng niệm

Tụng kinh, niệm Phậtphương pháp, mục đích làm cho tâm thanh tịnh. Chúng ta thực hành phương pháp này để trừ bỏ tất cả vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, làm cho tâm niệm trong sạch, tâm tịnh thì cõi tịnh; như thế mới được vãng sanh. Chúng ta không nên sinh khởi ý nghĩ sai lầm, cho rằng niệm danh hiệu Phật nhiều mới được vãng sanh, nếu vừa niệm Phật, vừa khởi tâm tham, sân, si, vừa tính toán như thế nào với người khác. Như thế có vãng sanh được không?

Thế nên chúng ta phải biết dùng phương pháp này để trừ bỏ niệm phiền não, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước; giữ tâm thanh tịnh, tâm từ bi thì mới được vãng sanh. Vì thế, khi chúng ta khởi tâm động niệm, nói năng, hành động phải đối chiếu có đúng như trong kinh dạy không? Vì sao Phật, Bồ-tát dạy chúng ta thực hành khóa tụng sớm, tối? Ý nghĩa này tôi đã nói với các vị rất nhiều lần, khóa tụng sớm tối là trị bệnh. Thời xưa khóa tụng sáng tối là cá nhân mỗi người tự tu. Khi Phật còn tại thế cho đến khi Phật pháp truyền vào Trung Quốc, đại chúng cùng ở chung một chỗ cùng tu học, nghe kinh, nghiên cứu thảo luận; giống như lên lớp học. Tu hành là tu cá nhân của mỗi người, không cùng nhau cộng tu, chỉ có đến nghe kinh, nghiên cứu thảo luận mới ở chung một chỗ.

Người khởi xướng cộng tu là vị Tổ đầu tiên của tông Tịnh Độ tức là đại sư Huệ Viễn. Đại sư ở núi Lô Sơn kiến lập Niệm Phật Đường, tìm các vị đồng đạo cùng chung chí hướng gồm một trăm hai mươi ba vị cộng tu. Nhưng các tông phái khác thì tôi chưa nghe nói qua. Mỗi giáo phái đều có đề xướng phổ biến cộng tu là từ giữa đời Đường trở về sau. Hai vị đại sư Bách Trượng và Mã Tổ đề xướng xây dựng tòng lâm. Xây dựng tòng lâm, chẳng những là để cộng học mà còn phải cộng tu; cho nên, chế độ tòng lâm là điểm đặc sắc của Phật giáo Trung Quốc. Mọi người sống chung một chỗ cùng nhau tu hành thì có lợi ích gì? Đó là dựa vào đại chúng, tự mình có lúc lười biếng, nhờ ở chung với mọi người, sách tấn bạn tinh tiến tu hành. Mọi người cùng nhắc nhở nhau, cùng khuyến khích lẫn nhau thì không có ai dám lười biếng là ý nghĩa này.

Thế nên, chế độ tòng lâm đối với chúng sinh thời mạt pháp có cái lợi, ở một người rất lười biếng, dễ thoái lui; nhưng mọi người cùng sống chung là tu hành thật sự. Do đó, mới có khóa tụng sáng tối, nội dung khóa tụng là thấy bệnh gì có hại cho chúng tacần dùng thuốc gì để chữa trị. Thời khóa tụng lúc xưa, hiện nay không thích hợp, cũng chính là nói nó có thể trị bệnh người thời đó, nhưng bệnh người ngày nay trị không được. Vậy phải làm thế nào? Phải kiểm tra mình mắc bệnh gì, cần dùng thuốc gì để đối trị.

Ngày nay, chúng ta tu Tịnh độ y theo kinh A-di-đà rất tốt, rất ngắn và rất thâm diệu. Có lẽ bạn sẽ nói kinh A-di-đà rất dễ hiểu, không có gì sâu sắc thì bạn hãy đọc chú giải của đại sư Ngẫu Ích, hay xem chú giải của đại sư Liên Trì, bạn sẽ giật mình kinh ngạc, bạn mới hiểu sâu được kinh này ngang với sự sâu sắc của kinh Vô Lượng Thọ; cho nên hôm nay tôi chọn khóa tụng kinh Vô Lượng Thọ, học thuộc lòng kinh để chúng ta thường nhớ đến trong kinh Đức Phật dạy chúng ta làm thế nào, chúng ta có làm được không?

Khoá tụng buổi tối là để phản tỉnh, hôm nay chúng ta làm được việc tốt thì tự khuyến khích mình, ngày mai phải làm tốt hơn; nếu chưa làm được việc tốt thì phải nghĩ cách làm cho được, tu hành đúng theo lời Phật dạy; đó là khóa tụng sáng tối. Khóa tụng sáng tối mới có công đức thật sự, không phải sáng sớm chúng ta tụng một biến cho Phật, Bồ-tát nghe; tối đến lại tụng một biến cho các ngài nghe mà hành vi trong sinh hoạt hàng ngày chẳng mảy may liên quan đến kinh dạy, tội nghiệp ấy rất nặng, đều đọa vào địa ngục A-tỳ. Khi chúng ta gặp vua Diêm La còn hỏi:

- Mỗi ngày thảo dân đều tụng đủ thời khóa sáng tối, vì sao bệ hạ còn bắt thảo dân xuống địa ngục A-tỳ?

Vua Diêm La nói:

- Buổi sáng nhà ngươi dối Phật, Bồ-tát một lần; tối đến lại dối gạt lần nữa, lừa dối cả một đời; ngươi không đọa địa ngục thì ai đọa?

Chúng ta phải biết, nếu không hiểu ý nghĩa khóa tụng sáng tối thì đó là nghiệp nhân của địa ngục A-tỳ. Chúng ta lừa dối Phật, Bồ-tát, các ngài không còn ở đời, chỉ là hình tượng xi măng, gỗ chạm mà chúng ta nhẫn tâm dối các ngài, tâm của chúng ta thật quá tàn nhẫn.

Thời gian trôi qua rất nhanh, tôi giảng hôm nay là ngày cuối cùng; lần sau sẽ tổ chức pháp hội Phật thất ở đây. Tôi hoan nghinh các vị đồng tu đến tham gia. Ba ngày này chúng ta sẽ cùng nhau thảo luận những vấn đề có quan hệ rất mật thiết đến việc tu họcsinh hoạt của chúng ta.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 28268)
Phương Trời Cao Rộng - Truyện dài của Vĩnh Hảo, Chiêu Hà xuất bản tại California, Hoa Kỳ năm 1993, tái bản năm 1995
(Xem: 6733)
Tiếng nói của những người con Phật có tấm lòng từ bi và trí tuệ đi vào đời...
(Xem: 8848)
Báo Chánh Pháp - bộ mới Số 43, tháng 06 năm 2015
(Xem: 9378)
Hy hữu, vì biết lấy Phật giáo làm lý tưởng đời mình và chọn sự thực hành Phật Pháp như là sinh hoạt nền tảng hàng ngày
(Xem: 15479)
Nguời quân tử ra làm quan đi vào con đường hành chính, không những ngồi ung dung nơi miếu đường nói truyện văn nhã, để lấy tiếng là người có đức vọng...
(Xem: 8315)
Báo Chánh Pháp Số 41 Tháng 4/2015
(Xem: 8739)
Tuyển tập những bài viết về mùa Xuân trong nền văn hóa Phật giáo Việt Nam. Giai Phẩm Xuân Ất Mùi 2015...
(Xem: 16805)
Những ngữ cú của Sư được chép rải rác trong trứ tác của các nhà, nhưng chưa được gom tập. Cho nên vào niên hiệu Nguyên Văn, thiền sư Huyền Khế biên tập và đặt tên là Động Sơn Lục, tàng bản tại Bạch Hoa Lâm.
(Xem: 27082)
Thiền Lâm Bảo Huấn đây chính là phần Ngữ lục. Nội dung của sách Bảo Huấn được chia thành 4 quyển, gồm gần 300 thiên. Mỗi thiên đều là những lời vàng ngọc để răn dạy về cách tu tâm xử thế...
(Xem: 18787)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 15722)
Là một sách tự lực của tác giả người Mỹ Dale Carnegie, được viết vào năm 1948. Bản Việt Ngữ do Nguyễn Hiến Lê dịch năm 1955 tại Sài Gòn và đưa vào tủ sách Học làm người.
(Xem: 22654)
Để góp nhặt hết tất cả những ý niệm tác thành tập sách nhỏ “Tâm Nguyên Vô Đề” này là một lời sách tấn, khuyến khích của Thiện hữu tri thức để lưu dấu một cái gì. Cái uyên nguyên của Tâm... Nguyên Siêu
(Xem: 19592)
“Phật pháp trong đời sống” của cư sĩ Tâm Diệu là tuyển tập về mười hai chuyên đề Phật học gắn liền với đời sống của người tại gia.
(Xem: 18469)
Gió không từ đâu tới; gió cũng đã chẳng đi về đâu. Gió hiện hữu, rồi gió tan biến, xa lìa. Tử sinh cũng như thế. Tuy có đó, tuy mất đó
(Xem: 16319)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ
(Xem: 25751)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 12959)
Tay Bụt trong tay ta có nghĩa là ta được nắm tay Bụt mà đi. Cũng có nghĩa là trong tay ta đã có tay Bụt. Bụt và ta không còn là hai thực tại riêng biệt.
(Xem: 37936)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 20198)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 10777)
Bộ Tịnh Độ Thánh Hiền Lục do cư sĩ Bành Tế Thanh cùng cháu là Hy Tốc, người đời Càn Long nhà Thanh sưu tập những truyện niệm Phật được vãng sanh soạn thành.
(Xem: 10112)
Tâm là nguồn sống vô tận và ánh sáng của tâm là ánh sáng vô tận. Tâm lắng yên phiền nãotâm bình đẳng và thanh tịnh vô tận.
(Xem: 10588)
Nguyên tác: The Art of Happiness in a Troubled World; Tác giả: Đức Đạt Lai Lạt Ma và Howard C. Cutler; Chuyển ngữ: Tuệ Uyển
(Xem: 10443)
Cuốn sách này được viết ở Thái Lan, nơi tôi đã sống trong một vài năm. Khi tôi gặp người Thái, tôi đã rất ấn tượng trước sự rộng lượng của họ.
(Xem: 11086)
Sách này không ngại phổ biến cho nhiều người cùng đọc. Có thể nhờ đọc nó, người ta có cơ hội bước vào cửa ngõ Chánh pháp...
(Xem: 15350)
Bửu Tạng Luận tác giảTăng Triệu, bài luận này và bộ Triệu Luận đều có ghi trong tập 96 của Tục Tạng Kinh, nhưng bộ Triệu Luận đã lưu hành từ xưa nay...
(Xem: 10907)
Theo truyền thuyết Ấn giáo, thần Vishnu có lần hoá sinh làm một vị vương tử sống bên bờ sông Hằng. Tên ông là Ravana...
(Xem: 19796)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 11770)
Sư sống vào thời Hậu Lê, người ta quen gọi là Tổ Cầu. Tổ tiên quê ở làng Áng Độ, huyện Chân Phúc. Ông Tổ năm đời của Sư làm quan Quản chu tượng coi thợ đóng thuyền cho triều đình.
(Xem: 10857)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm.
(Xem: 11301)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay.
(Xem: 10166)
Đức Phật hướng dẫn cần chuyển hóa tâm thức làm cho nỗi đau, phiền não, nghiệp chướng không còn sức sống, lúc đó chúng ta mới đạt được hạnh phúc thật sự.
(Xem: 10634)
Đại sư quả quyết với chúng ta rằng những điều nói ra trong "Chứng Đạo Ca" là để dẫn chúng ta "Chứng thực tướng, không nhân pháp,"
(Xem: 11614)
Suốt hai mươi lăm thế kỷ hiện hữu trên thế gian này, đạo Phật chưa một lần gây tổn thương hoặc làm thiệt hại cho bất cứ một dân tộc, xã hội hay quốc gia nào.
(Xem: 10944)
Chủ yếu Đạo Phật là chỉ dạy chúng sanh giải thoát mọi khổ đau, song lâu đài giải thoát phải xây dựng trên một nền tảng giác ngộ...
(Xem: 11476)
Lăng Già ngời bóng nguyệt, Hoàng Anh đề trác tuyệt, Dị thục thức đã thuần, Ca bài ca bất diệt.
(Xem: 12212)
Bậc Thánh A La Hán, bậc đã thanh lọc tâm, là người không bao giờ còn phải tái sinh trở lại. Nếu tâm của ngài căn bảnthanh tịnh...
(Xem: 11123)
Tiếng đại hồng chung ngân vang như xé tan bầu không khí đang trầm lắng. Đó là báo hiệu cho mọi người chuẩn bị hành lễ của thời khóa Tịnh độ tối...
(Xem: 13084)
Chủ đề: 50 năm xuất giahành đạo của HT. Thích Như Điển
(Xem: 17883)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15329)
Bản tiếng Anh của Santideva. A Guide to the Bodhisattva Way of Life; Do Đặng Hữu Phúc dịch sang tiếng Việt dựa theo bản Phạn-Anh.
(Xem: 15816)
Các Tổ sư Thiền có khi hỏi đã không đáp, mà dùng gậy đánh, roi quật, miệng hét như trường hợp Tổ Hoàng BáThiền sư Nghĩa Huyền...
(Xem: 11053)
Thân hình tuy còn ngồi ở nơi thành thị, nhưng phong thái mình đã là phong thái của người sống ở núi rừng. Khi các nghiệp (thân, khẩu và ý) đã lắng xuống thì thể và tính mình đều được an tĩnh...
(Xem: 12175)
Kinh Quán Niệm Hơi Thở là một hệ thống thiền tập rất căn bản của đạo Bụt, là một nghệ thuật vun trồngđiều phục thân tâm tuyệt vời.
(Xem: 11091)
Hồn Bướm Mơ Tiên là tác phẩm mang âm hưởng Phật giáo rất sâu sắc dưới cái nhìn của tác giả.
(Xem: 21986)
Phật Giáo còn được phân chia thành hai nhánh khác nhau là Tiểu Thừa (Hinayana) và Đại Thừa (Mahayana)... Nguyên tác: Ajahn Chan; Hoang Phong chuyển dịch
(Xem: 12162)
Giai Nhân Và Hòa Thượng gồm có 10 truyện ngắn Do Hội Giáo Dục Từ Thiện Sariputtra Xuất bản năm 2006... HT Thích Như Điển
(Xem: 9230)
Kỷ Yếu Kỷ Niệm Chu Niên 20 Năm Thành Lập Tu Viện Quảng Đức, chính thức ra mắt nhân dịp Khóa An Cư Kiết Đông kỳ 15 của Giáo Hội, được tổ chức tại Tu Viện Quảng Đức từ ngày 1 đến 11 tháng 7 năm 2014...
(Xem: 20244)
Quyển sách nầy nhằm giải đáp một phần nào những thắc mắc trên qua kinh nghiệm bản thân của người viết... HT Thích Như Điển
(Xem: 17347)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10139)
Tôi chia sẻ các phương pháp điều trị ung thư không phải để khoe khoang kiến thức về bệnh tật, y khoa và thiền học... Chân Pháp Đăng
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant