- Mục Lục
- Lời mở đầu
- 1. Ý thức về cái chết
- 2. Tự giải thoát khỏi sự sợ hãi
- 3. Chuẩn bị cho cái chết
- 4. Vượt qua những chướng ngại cản trở
- 5. Tạo những điều kiện thuận lợi vào giờ phút lâm chung
- 6. Thiền định trong khi chết
- 7. Cấu trúc bên trong
- 8. Ánh sáng trong suốt của cái chết
- 9. Phản ứng trong giai đọan chuyển tiếp
- 10. Hướng về sự tái sinh tích cực
- 11. Suy tư hằng ngày về bài thơ
- 12. Phụ Lục
- Sách Tham Khảo & Chú Thích
CHỦ ĐỘNG CÁI CHẾT
ĐỂ TÁI SINH TRONG MỘT KIẾP SỐNG TỐT ĐẸP HƠN
Đức Đạt Lai Lạt Ma
Hoang Phong dịch
Nhà xuất bản PHƯƠNG ĐÔNG TP. Hồ Chí Minh 2010
Sách tham khảo
S.S le Dalai Lama,
Comment pratiquer le Bouddhsme, dịch từ tiếng Anh do Yolande du Luard, Plon,
2002, Pocket 2003.
- Sens de la vie:
réincarnation et liberté, dịch từ tiếng Anh do Michel Cool và Pierre Lafforgue,
J’ai lu 2000.
- Kindness,
Clarity, and Insight, dịch từ tiếng Tây tạng do Jeffraey Hopkins, Ithaca, N.Y.
Snow Lion Publication, 1984.
RINPOCHÉ Lati et Jeffray
HOPKINS, La mort, l’État intermédiaire et la Renaissance dans le Bouddhisme
tibétain. Dharma, 1997.
TSONGKHAPA, Le Grand Livre de la progression vers l’Éveil, vol. 1, Dharma, 1997.
LEKDEN, KENSUR, Compassion et vacuité: méditation d’un supérieur de collège tantrique pratique de la vacuité, Publié chez Dharma, 1989.
HOPKINS, Jeffray,
Bouddhist Advice for Living ang Liberation; Nagarjuna’s Precious Garland.
Ithaca, New York; Snow Lion Publication, 1998.
- Cultivating
Compassion. New York: Broadway Books, 2001.
WALLACE, Vesna A. and B. Alan WALLACE, A guide to Bodhisattva Way of Life. Ithaca, New York, Snow Lion Publications, 1997.
Rinchen, Geshe SONAM and Ruth SONAM, Yogic Deeds of Bodhisattvas: Gel-stap on Aryadeva’s Four Hundred, Ithaca, New York, Snow Lion, 1994.
Chú Thích
1 Bodgaya: Phật Già-Đa
hay Chánh Giác Sơn. Đức Thích Ca đã tham thiền nơi đây và đắc quả Chánh Giác.
2 « Đỉnh kên kên », đỉnh
núi có khối đá hình dáng một con chim kên kên. Kinh sách tiếng Hán và tiếng
Việt viết là « Linh thứu sơn », còn gọi tắt là « Linh sơn » (tiếng Phạn là
Gridharakuta »).
3 Ninh-mã phái (Nyingma)
còn gọi là Hồng giáo vì các nhà sư đội mũ màu nâu đỏ. Đây là giáo phái xưa nhất
trong bốn giáo phái chính của Tây tạng.
4 Còn gọi là Tối thương
Du-già Tan-tra hay Vô thượng Du-già Tan-tra: phương pháp tu luyện tối thượng,
thành phật trong kiếp này với thân xác này. Tối thượng Du-già Tan-tra xem tâm
tịnh là căn bản của mọi phép tu.
5 Còn gọi là Bồ tát Văn
Thù hay Diệu Đức, hay Diệu Cát Tường, hay Diệu Âm, (tiếng Phạn là Manjousrhi),
là vị Bồ Tát tượng trưng cho Trí Tuệ và kinh nghiệm giác ngộ bằng phương
tiện Tri Thức.
6 Tăng đoàn
7 Câu này là tiếng Phạn,
tạm dịch nghĩa: « Om, Ngọc Quý trong Hoa Sen, Hum » (Om và Hum không có
nghĩa nhưng hàm chứa âm hưởng thiêng liêng)
8 Ý câu này có lẽ muốn
nói đến sự cân đối giữa tâm linh và thể xác, hàng thú vật phần tâm linh kém
hơn.
9 Chẳng hạn trường hợp
chó xông vào đám cháy để cứu trẻ em, nhảy xuống sông cứu người chết đuối, hoặc
trường hợp cá voi, cá heo cứu người trên biển...
10 Đây là một mệnh đề về
luận lý triết học. Một cách đại cương, sự hiện hữu của xác thân trên đó giác
cảm, sự cảm nhận và tâm thức phát triển, là do sự phối hợp của rất nhiều «
nghiệp », hay rất nhiều nguyên nhân và điều kiện.
11 Thánh Thiên: tên
tiếng Phạn là Aryadeva, dịch âm là Đề-Bà, dịch nghĩa là Thánh Thiên Bồ-tát, còn
gọi là Độc Nhãn Bồ Tát vì giai thoại sau đây: Trên đường từ Tích Lan đến tu
viện Nalanda, bắc Ấn độ, ngài gặp một người đàn bà xin một con mắt để tu luyện,
ngài liền móc mắt bên phải và cho ngay. Thánh Thiên sinh vào cuối thế kỷ thứ II
tại Tích Lan, là một trong những đệ tử quan trọng của Bồ Tát Long Thọ
(Nagarjuna), và cũng là tổ thứ 15 của Thiền tông Ấn độ. Ngài trụ trì một thời
gian khá lâu tại tu viện Nalanda, trước khi trở về phương Nam. Một trong các
tác phẩm chính của Ngài là « Bốn trăm tiết mục » liên quan đến du-già.
12 Hiện trạng thân thể
phì nộm (quá mập), là một lo lắng của các xã hội Tây phương hiện nay.
13 Đức Dạt-lai Lạt-ma
cũng như những nhà sư Tây tạng khác, khi thuyết giảng thường ngồi trong tư thế
hoa sen trên một bục gỗ cao trang trí rất đặc biệt.
14 Dịch câu này tôi liên
tưởng đến hiện tượng ta gọi là « phép lạ ». Dù phép lạ có thật, xảy ra thật
nhiều và thường xuyên đi nữa, rốt cuộc ta cũng chết. Phép lạ không phải là một
giải pháp, cũng chẳng phải là một lối thoát. Nếu « có thật » đi nữa, cũng chỉ
là tạm thời và giai đoạn mà thôi, kể cả phép lạ và người làm ra phép lạ, sự
thoái hóa và tan rã cũng đã nằm sẵn trong đó.
15 Tsongkapa, dịch âm là
Tông-Khách-Ba (1357-1419), là một vị Lạt-ma nổi danh của Tây tạng, sáng lập
tông phái Cách lỗ (Gelugpa). Ông sinh ở tỉnh Amdo, cùng quê với Đức Đạt-lai
Lạt-ma XIV. Từ bé đã cực kỳ thông minh, lúc ba tuổi thụ giới với một vị sư
thuộc dòng Cát-mã-ba (Karmapa). Trong số những tác phẩm ông đã để lại có thiên
luận giải gồm 18 bộ, đã trở thành kinh sách giáo khoa của Phật giáo Tây tạng.
16 Một câu nói rất ý
nhị, một vị bác sĩ đương nhiên sẽ hiểu rằng giả thuyết nào sẽ gần với sự thật
hơn hết để chuẩn bị.
17 Vô minh, tiếng Phạn
là Avidya, dịch âm là A-vĩ-nễ hay A-vĩ-di, có nghĩa là tâm thức không sáng, ám
muội, u mê, không nhìn thấy bản thể đích thực của mọi vật thể và mọi biến cố.
Vô minh cũng có nghĩa gần tương đương với si, si mê (mudha, moha).
18 Giai đoạn trung gian,
còn gọi là trung ấm, tức giai đoạn chuyển tiếp giữa hai kiếp sống.
19 Thuộc miền tây bắc Ấn
độ, nơi Đức Dat-lai Lạt-ma lưu trú.
20 Dịch âm là kinh
Cha-kra sam-va-ra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe đại hạnh ». Một bộ kinh quan
trọng của Phật giáo Tây tạng.
21 Dịch âm là kinh Ka-la
cha-kra, dịch nghĩa là kinh « Bánh xe thời gian » hay kinh « Thời luân ». Bộ
kinh rất quan trọng thuộc trường phái của Đức Đạt-lai Lạt-ma. Kinh Ka-la
cha-kra là một bộ kinh rất thâm sâu và phức tạp, xuất hiện vào khoảng thế kỷ
thứ X ở Ấn độ, nhưng theo truyền thống thì bộ Kinh này có nguồn gốc xưa hơn, từ
thời Đức Phật Thích-ca.
22Phật ứng hiện dưới ba
xác thân gọi là Tam thân Phật:
-Pháp thân (dharmakya):
bản thể của Phật, còn gọi là Chân như.
-Báo thân (vipakakaya):
hiện thân của Phật.
-Ứng thân (nirmànakaya):
còn gọi là Hoá thân, Ứng hóa thân, Biến hóa thân...có nghĩa Phật ứng hiện ở
muôn ngàn thể dạng khác nhau để tùy cơ dẫn độ chúng sinh.
23 Thanh tịnh độ còn gọi
là Tịnh độ, Phật quốc, Phật giới, Phật địa v.v…
24 nKhông được rõ về
lịch sử các nhân vật này và nguồn gốc kinh sách trích dẫn.
25 Tức là sự nhận biết,
còn gọi là thức (tiếng Phạn: vijnana), có thể xem tương đương với các chữ như
tri giác, ý thức hay tri thức, khác nghĩa với tạng thức hay hay A-lại-gia-thức
(tiếng Phạn alayavijnana). Học phái Duy Thức xem tạng thức là dạng thể cao nhất
của phần tâm thức, là căn bản của mọi hiện tượng. Nghĩa khác biệt nhau giữa các
danh từ là một trở ngại lớn trong việc dịch thuật. Các chữ thức, tri thức, tri
giác...có nghĩa là sự nhận biết, trong khi đó chữ tâm thức hay tâm linh có
nghĩa rộng và sâu hơn, gồm cả xúc cảm, sự suy nghĩ, tình cảm, những xung năng
tiềm ẩn...
26 Cách mô tả sinh học
của Tối thượng Du-già Tan-tra là một cách mô tả « ẩn dụ », tức cụ thể hoá và
đơn giản hoá những gì phức tạp hơn, nhắm vào mục đích hướng dẫn sự chú tâm và
thiền định.
27 Đám rối dương (plexus
solaire) là một danh từ Y khoa, còn gọi là trung tâm thần kinh thực vật nằm
giữa dạ dày và xương sống.
28 Trẻ vị thành niên ở
các trường học, hoặc trong phòng riêng của chúng thường bày trò chơi bằng cách
dùng dây hay khăn buộc cổ và xiết thật chặt đến lúc gần ngất xỉu (chết) mới
buông ra. Chúng tự làm hay nhờ bạn làm giúp. Giây phút sắp ngất xỉu, vì thiếu
dưỡng khí lên óc, tạo ra một trạng thái « sảng khoái » (?) hay « hoa mắt » làm
cho chúng thích thú. Trò chơi này thường gây nhiều tai nạn chết người, phụ
huynh và những người giữ trọng trách giáo dục tại Âu châu thường chú ý canh
chừng và cấm đoán. Trường hợp mô tả trên đây là dùng các kỹ thuật du-già (thiền
định) để tìm hiểu những trạng thái sâu kín trong quá trình của cái chết.
29 Bà Alexandra
David-Néel cũng đã chứng kiến những hiện tượng này, xin xem các sách của bà. Bà
Alexandra David Neel (1868-1969) là một người phưu lưu và xông pha khác thường,
có một trí thông minh vượt bậc. Bà là người phụ nữ Âu châu đầu tiên đến được
Lhasa năm 1924. Bà viết rất nhiều sách về Phật giáo, về Tây tạng, Ấn độ, Trung
hoa, và đã từng đến Việt Nam và có viếng đền thờ hai Bà Trưng tại Hà nội, trước
khi tiếp tục đi ngược lên Vân nam thuộc Trung quốc. Sách của bà đã có nhiều ảnh
hưởng trong nền tư tưởng Phật giáo Âu châu và thế giới kể cả thế hệ trí thức
của cha anh chúng ta trong cả hai giai đoạn tiền chiến và hậu chiến. Rất tiếc
sách của bà rất ít được dịch sang tiếng Việt. Cụ Đoàn Trung Còn, một học giả
lỗi lạc của Việt Nam, có trích dịch sách của bà trong quyển « Mấy thầy tu huyền
bí Tây tạng và Mông cổ » xuất bản năm 1942. Quê của bà ở miền Nam nước Pháp và
ngôi nhà trước kia của bà hiện nay đã trở thành một bảo tàng viện trưng bày
nhiều di vật, bản thảo các sách của bà ; bàn thờ Phật vẫn giữ nguyên như khi bà
còn sống. Hàng năm rất nhiều người đến viếng và chiêm ngưỡng. Khi Đức Đạt-lai
Lạt-ma đến miền Nam nước Pháp thuyết giảng, có ghé đến đây và đọc một bài diễn
văn tưởng niệm bà.
30 Tánh không, tiếng
Phạn là « Sunyata » có sách viết là không, hư không, hư vô (các kinh sách Tây
phương dịch là vide, vacuité, espace, vacuum, emptyness...). Tánh không của mọi
hiện tượng, tức mọi vật thể và mọi biến cố, là một khái niệm căn bản của Đạo
Pháp. Mọi hiện tượng ta « thấy » và « hiểu », tức cảm nhận được, chỉ là những
biểu lộ tạm thời, phát sinh từ nhiều nguyên nhân và liên hệ với nhiều điều kiện
; chúng biến đổi không ngừng, kể cả các nguyên nhân và điều kiện tạo tác ra
chúng. Đó là bản chất vô thường của mọi vật thể và mọi biến cố, thực tính hay
bản chất đích thực của chúng là Tánh không.
31 Kinh sách tiếng Việt
và Hán gọi là « giả tướng »
32 Trí tuệ tiếng Phạn là
Prajna. Thật ra, trong kinh sách Tây phương cũng như kinh sách tiếng Việt,
không có chữ nào tương đương và diễn tả hết ý nghĩa của chữ này. Chữ Prajna
dịch âm là: Bát-nhã, Bát-lạt-nhã, Ban-nhã, Bát-la-nhã, Tỳ-bà-xá-na..., dịch
nghĩa là Trí, Minh (Sáng), Trí-huệ hay Trí-tuệ...
33 Tiếng nhà Phật là Vô
Minh (=A-vĩ-di, Avidya).
34 Nhà bác học và triết
gia Pháp Blaise Pascal, thuộc thế kỷ XVII, đã phát biểu một câu nổi tiếng như
sau: « Tôi suy nghĩ tức là tôi hiện hữu » (Je pense donc je suis). Vậy ta thử
hỏi trước khi ta suy nghĩ, ta có hiện hữu hay không? Giữa hai sự suy nghĩ hay
sau một sự suy nghĩ (vì lý do này hay lý do khác, bắt buộc hay tự ý: xao lãng,
ngất xỉu...), ta có hiện hữu hay không? Vậy sự hiện hữu của ta dính liền với
một điều kiện phải có là sự suy nghĩ, sự suy nghĩ của ta lại dính liền với vô số
những điều kiện khác nữa, chẳng hạn như thân xác ta, tâm thức ta, sự học vấn
của ta, ngay cả sự hiện hữu của ta, v.v. và v.v…
35 Tức là giới luật của
những vị Bồ tát, gọi là Bồ Tát Giới, gồm 10 điều nghiêm cấm hệ trọng và 48 điều
nghiêm cấm thứ yếu. Điều 8 trong 10 điều nghiêm cấm hệ trọng là sự Ganh ghét.
36 Tông-khách-ba
(Tsongkhapa) (1357-1419): là một vị Lạt-ma Tây tạng, sáng lập giáo phái Cách lỗ
(Gelugpa)
37 Khi ta không thấy sự
hiện hữu nội tại hay tự tại của mọi hiện tượng, ta cho là chúng không có, không
hiện hữu đích thực (Tánh không). Nhưng ta không thể phủ nhận cơ sở, tức đối
tượng của những gì ta đang tìm kiếm. Rốt lại, ta nhận ra rằng những gì ta tìm
kiếm và những gì ta phủ nhận cũng chỉ có bằng tên gọi hay danh xưng mà thôi.
38 Có thể tạm hiểu như «
thực tính » của một hiện tượng.
39 Tức ba giai đoạn hiển
hiện của bầu-trời-tâm-thần màu trắng, màu đỏ cam, màu đen.
40 Mặc dù hết sức đa
đoan, Đức Đạt-lai Lạt-ma vẫn ngồi thiền, học hỏi, tu tập liên tục mỗi ngày,
luôn luôn nhắc đến các vị thầy của mình và truyền lại cho chúng ta những kinh
nghiệm đã học hỏi được. Xin chú ý sự khiêm nhường của một vị « Phật sống ».
Trong nhiều sách khác Ngài cho biết vẫn ngồi thiền và ôn tập các giai đoạn của
quá trình cái chết từ sáu đến tám lần mỗi ngày. Ta thấy rằng điều này chẳng có
hại gì đến sự thư giản, và sức làm việc của Ngài, vì lúc nào Ngài cũng tươi
cười, ân cần với tất cả mọi người, có khi lại rất dí dỏm và khôi hài.
41 Những hiện tượng này
đã được nhiều bệnh viện và bác sĩ Tây phương chứng nhận khi có các nhà sư Tây
tạng chết tại Mỹ châu và Âu châu. Chỉ có các nhà sư Tây tạng mới xác định được
lúc nào người chết đã « chết hẳn ».
42 Có những trường hợp
khi các vị cao tăng ngồi thiền, hoạt động sinh lý của cơ thể chậm hẳn lại, tim
đập rất nhẹ và rất chậm, nhịp thở cũng rất chậm và thật nhẹ, mạch gần như không
nhận ra. Các vị ấy bất động trong tư thế ngồi thiền giống như tình trạng đã
viên tịch, nhưng râu tóc vẫn thấy mọc. Người chung quanh chờ mãi không thấy
động tịnh, hư rữa, liền đem sơn (loại sơn mài) bôi lên khắp người thành một pho
tượng. Ngày nay người ta có thể nhìn thấy hoặc chụp hình bộ xương bên trong
bằng quang tuyến X. Những di tích này vẫn còn ở Việt Nam và vài nước Á châu
khác.
43 Dịch nghĩa là kinh «
Kết hợp thần bí », bộ kinh này được dịch sang tiếng Tây tạng vào thế kỷ XI.
44 Có thể đây là những
hình ảnh cụ thể hóa dùng để mô tả những diễn biến siêu hình vượt ra khỏi sức
hiểu biết thông thường của ta, trong mục đích sử dụng cho việc thiền định.
45 Tức là không còn tái
sinh nữa
46 Phát huy hơi nóng là
cách tu tập của một số nhà sư Tây tạng. Vào mùa đông dưới không độ, họ trần
truồng ngồi thiền định xếp hàng trên tuyết, những người phục vụ nhúng một cái
mền (chăn) hay khăn trong nước lạnh buốt và đắp lên lưng họ, khi chăn khô vì
hơi nóng thì lại đắp lên tấm khác. Số chăn sấy khô trong một đêm xác nhận cấp
bậc thiền định của mỗi người. Hiện tượng này gần đây đã được các bác sĩ người
Mỹ nghiên cứu bằng cách nhờ các nhà sư Tây tạng trên đất Mỹ và tại Dharamsala
(Ấn độ) thực hiện. Họ đeo cho các nhà sư máy móc để đo nhịp tim, áp huyết và
nhiệt độ nhiều nơi trên thân thể, mặt nạ đo nhiệt độ và tổng lượng dưỡng khí
hít vào, khí oxid carbon thở ra v.v....Bà Alexandra David-Neel cũng có mô tả
cách luyện tập này trong các sách của bà. Chính bà cũng tập luyện thành công
phép này và cho biết hơi nóng phát sinh giúp những nhà sư ngồi thiền định trong
các hang núi ở Hy Mã Lạp Sơn có thể nhịn đói và chịu lạnh qua hết mùa đông. Bà
còn cho biết những người tu cao, không cần ngồi trong tư thế thiền định, sức
nóng vẫn phát sinh tự nhiên, chỉ cần mặc một áo mỏng giữa mùa đông.
47 Để đưa ra một thí dụ:
Sau đây là vài lời khuyên của một nhà sư người Mỹ Lama Surya Das, từng tu học
gần ba mươi năm ở Népal, Tây tạng, Ấn độ, và hiện giảng dạy tại Mỹ (vùng Boston):
Khi ngồi, ta hãy
ngồi như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đứng, ta hãy
đứng lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật.
Khi đi, ta hãy
bước lên như một vị Phật. Hãy xem ta là một vị Phật
Khi suy nghĩ, ta
hãy suy nghĩ như một vị Phật. Hãy để cho Phật suy nghĩ xuyên qua tâm ta.
Khi thở, ta hãy
hít thở như một vị Phật.
Hãy để cho Phật
hít thở bằng thân xác ta.
Hãy để cho Phật
sống bằng thân xác ta. Hãy xem ta là một vị Phật.
Hãy tận hưởng sự
toàn thiện tự nhiên. Ta sẽ nhận thấy rằng ta giống rất nhiều với một vị Phật,
nhiều hơn là ta đã tưởng.
(Lama Surya Das:
Éveillez le Bouddha qui est en vous, nhà xuất bản Robert Laffont, 1998, 347
trang, đoạn trích dẫn trang 129, sách dịch từ nguyên bản tiếng Anh)
48 Thần linh biểu tượng
của Trí tuệ.
49 Khi « lấy » tinh
trùng của một người đàn ông và trứng của một người đàn bà trong những điều kiện
nào đó, chính « người cho » và « người thực hiện » việc thụ thai trong ống
nghiệm đã mang những chủ đích rõ rệt và những kích thích tiềm ẩn. Kể cả trong
ngành chăn nuôi kỷ nghệ ngày nay (heo, bò, ngựa...), cũng cần phải kích thích
con vật đực để lấy tinh trùng và chờ lúc thích hợp để đưa tinh trùng vào tử
cung của con vật cái. Chính những chủ đích, xu hướng và những kích thích tiềm
ẩn như vừa kể đã tạo ra những điều kiện cần thiết hay môi trường (duyên) « thu
hút » hoặc « ruồng bỏ » (tác động của nghiệp) liên hệ đến sự kết hợp trứng và
tinh trùng (quả của nghiệp); sự kiện thụ thai chỉ là cơ sở chuyên chở cho sự
tái sinh.
50 Tức là thụ thai trong
ống nghiệm