Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hội Thứ Nhất

13 Tháng Mười Một 201300:00(Xem: 4555)
Hội Thứ Nhất

TRÁI TIM CỦA TRÚC LÂM ĐẠI SĨ
Thích Nhất Hạnh
Nhà xuất bản Phương Đông

Hội thứ nhất

 

HỘI THỨ NHẤT


Mình ngồi thành thị; nết dùng sơn lâm. Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; nửa ngày rồi tự tại thân tâm.
Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý; thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.
Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý; biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm!
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng; liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.
Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục; nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam.
Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.

 

BÌNH GIẢNG

Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm.

Dùng là tiếng Việt. Câu này có nghĩa là thân của ta tuy sống ở thành thị, nhưng phong thái của ta đã là phong thái của người ở núi rừng rồi.

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính; nửa ngày rồi tự tại thân tâm.

Muôn là mười ngàn. Khi mười ngàn hành động (về thân, về nghiệp và về ý) đã lặng xuống thì cái thể và cái tính của ta an nhàn trở lại. Thể, tiếng Anh là Essence, tính là Nature. Lặng xuống là relaxed, là peaceful. Nửa ngày rồi, rồi ở đây có nghĩa là thanh thản, không bị bó buộc. Nửa ngày thực tập sự thảnh thơi, thanh thản, nhờ vậy mà thân và tâm của ta đã bắt đầu có tự do.

Tham ái nguồn dừng, chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý; thị phi tiếng lặng, được dầu nghe yến thốt oanh ngâm.

Khi ngọn suối tham ái ở trong ta đã khô cạn rồi, thì cái đầu của ta không còn nghĩ tới vàng bạc, châu báu, tiền tài và của cải nữa. Thị phi nghĩa là ai phải ai trái; khi những tiếng cãi lộn với nhau về “anh sai tôi đúng” ngừng lại rồi, thì bắt đầu ta tha hồ được nghe những tiếng chim chóc véo von ca hát: Được dầu nghe yến thốt oanh ngâm. Dầu ở đây có nghĩa là tha hồ.

Chơi nước biếc, ẩn non xanh, nhân gian có nhiều người đắc ý;

Ở trong cuộc đời có nhiều người biết thưởng thức cảnh trí của thiên nhiên, như nước màu biếc, núi màu xanh, và họ lấy làm đắc ý về sự kiện họ có thể thưởng thức được vẻ đẹp của thiên nhiên. Nhưng:

Biết đào hồng, hay liễu lục, thiên hạ năng mấy chủ tri âm!

Hay có nghĩa là biết, là hiểu. Năng ở đây có nghĩa là có thể, có khả năng. Thiên hạ năng mấy chủ tri âm là trong thiên hạ có mấy ai có khả năng biết được bản chất của đào hồng, của liễu lục. Chỉ có những thiền sư đắc đạo mới có thể nắm được bản chất của đào hồng liễu lục. Chúng ta đã nghe bài kệ của thiền sư Linh Vân khi trông thấy hoa anh đào nở thì thoắt nhiên đại ngộ.

Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng;

Nguyệt bạc là vừng trăng màu bạc. Vừng xanh là bầu trời xanh thẳm. Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng có nghĩa vừng trăng bạc trên bầu trời xanh chiếu soi khắp mọi nơi. Mặt trăng không có kỳ thị, ở đâu có dòng sông là dưới đáy sông đó có phản chiếu ánh mặt trăng. Lai láng nghĩa là chỗ nào cũng có.

Chúng ta nhớ đến hai câu thơ của vua Trần Thái Tông:

Thiên giang hữu thủy thiên giang nguyệt,

Vạn lý vô vân vạn lý thiên.

Nghĩa là một ngàn dòng sông (thiên giang) thì dòng sông nào còn nước là dòng sông đó có mặt trăng ở trong lòng, và mười ngàn dặm đường (vạn lý) mà dặm nào không có mây là dặm đó có trời xanh. Thành ra khi đọc câu “Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng” chúng ta có khuynh hướng nhớ tới câu thơ của Trần Thái Tông. Đúng là cháu (vua Nhân Tông) nhớ thơ của ông nội (vua Thái Tông)!

Nguyệt bạc, vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng. Thiền hà là dòng sông thiền. Dòng sông một khi tĩnh lặng, không có sóng gió thì phản chiếu được hình ảnh của mặt trăng ở trong lòng nó. Chúng ta cũng vậy. Mỗi chúng ta là một dòng sông thiền. Khi nào nước ở trong dòng sông ta lắng trong thì ta phản ảnh được mặt trăng Phật tánh ở trong ta. Đây là những hình ảnh thi ca rất tuyệt diệu.

Chúng ta nhớ bài:

Bụt là vầng trăng mát,
Đi ngang trời thái không,
Hồ tâm chúng sanh lặng,
Trăng hiện bóng trong ngần.

Khi nào hồ tâm của chúng ta lặng yên thì mặt trăng hiển hiện trong hồ tâm đó. Ở đây cũng vậy. Khi mặt trăng sáng chói ở trên bầu trời xanh chiếu xuống thì nó soi rõ và phản chiếu trong tất cả mọi con sông.

Liễu mềm hoa tốt, ngất quần sinh tuệ nhật sâm lâm.

Cành liễu thì mềm, bông hoa thì tốt. Ngất là cao ngất. Quần sinh các loại hữu tình. Quần sinh cũng như là chúng sinh, các sinh vật. Loài người, loài chim, loài cá, loài thú, loài côn trùng, tất cả đều gọi là quần sinh hay chúng sinh. Tuệ nhật tức là mặt trời của trí tuệ. Sâm lâm có nghĩa là sum suê, xanh tốt. Khi mặt trời trí tuệ chiếu xuống thì tạo ra màu xanh và nuôi dưỡng những loài thảo mộc tươi tốt. Mặt trời ở đây tức là mặt trời trí tuệ, là bát nhã. Mặt trời bát nhã chiếu vào ta thì ta được nuôi dưỡng và ta được tươi tốt trong đời sống tâm linh của chúng ta. Liễu mềm, hoa tốt là công trình của mặt trời, còn nếu chúng tahạnh phúc, có an lạc, đó là công trình của trí tuệ.

Lo hoán cốt, ước phi thăng, đan thần mới phục

Lo hoán cốt là lo đi tìm cách đổi bộ xương của mình. Đây là một phép thực tập của các nhà đạo sĩ. Họ muốn đạt tới cõi trường sinh, sống lâu không bao giờ chết, cho nên họ phải đổi xương của họ, gọi là hoán cốt. Ước phi thăng tức là mơ ước được bay lên cõi bất tử. Phi là bay, thăng là lên. Đan thần mới phục: Đan là thuốc viên, cũng như linh đan; thầnthuốc tiên, thần dược. Mới phục tức là mới uống, như phục dược, tức là uống thuốc. Vì những người kia muốn đổi xương, muốn trở thành bất tử, cho nên họ mới đi tìm thuốc trường sinh để uống. Đây là nói về các nhà tu theo Lão giáo,

Chúng ta còn nhớ một câu của vua Trần Thái Tông:

Đến được động tiên sâu thẳm ấy

Linh đan thay cốt mới quay về.

Khi tới được động đá của người tiên ở sâu thẳm trong núi, ta cương quyết phải xin cho được thuốc tiên, uống cho được linh đan, thay cho được tất cả những khúc xương ở trong cơ thể thì ta mới chịu quay về. Cũng như khi tới Làng Mai, ta nhất định không về hai tay không, ta phải đổi xương đổi cốt, phải đổi thịt đổi da, phải uống cho được thuốc chánh niệm, phải thay đổi con người của ta rồi mới chịu về, chứ không thể bỏ về nửa đường được.

Nhắm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam.

Thuốc thỏ tức là mặt trăng. Nếu nhìn lên mặt trăng quý vị sẽ thấy hình một con thỏ nằm trên đó. Con thỏ bằng ngọc, gọi là Ngọc Thố. Mặt trời thì người ta gọi là con quạ vàng, Kim Ô. Đó là danh từ để chỉ mặt trăngmặt trời trong văn chương Á Đông. Thuốc thỏ tức là thứ thuốc tiên, nếu như ta uống vào sẽ được bất tử, và có thể như là Hậu Nghệ bay lên mặt trăng và sống muôn đời trên đó.

Truyền thuyết cho rằng Hậu Nghệ đã ăn cắp thuốc trường sinh của vua. Nhà vua đã tìm đủ mọi cách để mời các vị đạo sĩ tới luyện đan cho vua uống để thành bất tử. Nhưng mới luyện xong, vua chưa kịp uống thì chàng Hậu Nghệ đã lẻn vào cung uống hết thuốc đó, rồi bay lên mặt trăng sống với Hằng Nga!

Nhẩm trường sinh, về thượng giới, thuốc thỏ còn đam. Đam là say mê. Nghĩa là những người có mục đích nhắm tới chuyện trường sinh, sống lâu và đi về thượng giới thì họ mới đam mê chuyện thuốc thỏ. Trong khi đó thì:

Sách dễ xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu; kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim.

Ở đây chữ dễ có người phiên âm là dịch, nhưng tôi nghĩ có thể không phải chữ dịch, tại vì kinh Dịch không phải là kinh Phật, hơn nữa cũng không nói về cái tính sáng, tức là cái bản tâm thanh tịnh của con người. Chơi ở đây nghĩa là thích, tiếng Anh là enjoy, ta thích xem sách. Sách đây tức là sách nói về giáo lý đạo Bụt, có thể là những bộ Luận. Mỗi ngày ta đem sách đó ra xem, ta yêu thích chuyện xem sách, tại vì xem sách là một phương pháp để nuôi dưỡng cái thấy của mình. Yêu tính sáng yêu hơn châu báu: Tính sáng tức là minh tánh, cái tính chiếu sáng sẵn có trong người của ta. Mỗi người đều có tính sáng. Ta yêu chuộng tính sáng vì đó là cái ta cho là quí giá hơn tất cả những cái gì khác, gọi là yêu tính sáng yêu hơn châu báu.

Chúng ta thấy tiếng Việt của thế kỷ thứ XIII, XIV còn Việt hơn là tiếng Việt của thế kỷ thứ XX, XXI của chúng ta: tính sáng chứ không viết là minh tính.

Kinh nhàn đọc dấu. Dấu đây có nghĩa là in dấu, cũng có nghĩa là ưa thích, như trong chữ yêu dấu. Ta ưa thích việc đọc kinh, đọc một cách nhàn hạ, cũng như việc xem sách, ta xem một cách dễ dãi, chứ không phải ta xem sách nhức đầu, nhức óc. Nếu nhức đầu nhức óc thì làm sao mà thưởng thức được? Cho nên ta xem sách như thế nào mà ta thấy có sự thích thú, có hạnh phúc ở trong đó. Đọc kinh cũng vậy. Ta đọc kinh không phải vì sợ thầy bắt trả bài, thầy bắt phải nói cho đúng, mà tại vì ta ưa thích đọc kinh. Đọc tới đâu ta cảm thấy hạnh phúc tới đó. Phương pháp tu của Trúc Lâm Đại Sĩ là vừa tu vừa chơi. Phải thưởng thức (enjoy) việc tu tập, chứ không phải lao động mệt nhọc.

Kinh nhàn đọc dấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim. Lòng rồi tức là nhàn tâm, nghĩa là lòng thanh thản, nhẹ nhàng. Trong tâm ta mà không có sự thanh thản nhẹ nhàng thì không cách gì có thể làm cho ta hạnh phúc cả. Tâm thảnh thơi ngày xưa gọi là lòng rồi, nghĩa là lòng rỗi. Trọng nữa hoàng kim có nghĩa là trọng hơn cả vàng bạc nữa. Nữa ở đây có nghĩa là hơn cả. Khi đọc sách ta thấy rằng ta yêu cái tính sáng sẵn có ở trong và yêu hơn cả châu báu. Khi xem kinh thì ta quí trọng cái tự do của tâm còn hơn bất cứ vàng bạc nào trong đời.

Giáo pháp

Trước hết là tự do. Tự do là cái mà người đi tu quí trọng nhất. Không có những dây buộc, dây ràng, không có cái gì có thể sai sử mình được nữa. Tự do đây không phải là tự do chính trị. Tự do đây là tự do của tâm, gọi là nhàn tâm, sự thảnh thơi trong tâm. Nếu tâm mình có thảnh thơi thì tự khắc mình có hạnh phúc. Cái mà người tu phải thực hiện trước tiên là đạt tới sự thảnh thơi của tâm, điều đó quí hơn cả vàng, quí hơn cả bạc, quí hơn tất cả những cái như công danhlợi dưỡng.

Thứ hai là tính sáng (tính Bụt). Trong mỗi chúng ta ai cũng có tính sáng, và đó là cái quí nhất mà chúng ta có, chúng ta chỉ cần làm cho nó biểu lộ ra thôi.

Thứ ba là phải nắm cho được bản chất của thực tại. Tuy nhiều người có khả năng thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, nhưng người tu cần phải đi xa hơn. Người tu không chỉ thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, mà còn phải tiếp xúc cho được, nắm cho được bản chất của thực tại. Không phải chơi nước biếc, ẩn non xanh mà đủ, mà phải biết đào hồng, hay liễu lục thì mới được. Tức là phải nắm cho được, phải tiếp xúc cho được bản chất của liễu lục, đào hồng, tức là pháp thân. Tại vì trúc tím hoa vàng, bạch vân minh nguyệt, đều là những biểu hiện của pháp thân cả. Tiếp xúc sâu sắc với trúc tím hoa vàng, bạch vân minh nguyệt thì chúng ta chạm được tới pháp thân. Đó gọi là biết đào hồng, hay liễu lục.

Sau cùng, nếu sống một đời sống nội hướng, sâu sắc thì dù có phải ở thành phố, chúng ta vẫn có an lạc hạnh phúc, chứ không hẳn phải trốn lên núi, đi vào rừng, chúng ta mới có thể có được điều đó.

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19843)
Lửa trong Cái Trí là một quyển sách của sự thâm nhập quan trọng được hướng dẫn bởi Krishnamurti, Ông Không dịch
(Xem: 20911)
Một tấm lòng, một con tim hay một thông điệp mà Mặc Giang nhắn gởi: “Cho dù 10 năm, 20 năm, 30 năm. Năm mươi năm nửa kiếp còn dư, Trăm năm sau sỏi đá còn mềm...
(Xem: 19253)
Nữ Phật tử ở khắp nơi trên thế giới đang cố gắng đổi mới, và bộ sưu tập này đề cập đến các hoạt động của họ ở Ấn Độ, Tích Lan, Miến Điện, Thái, Campuchia, Nepal, Tây Tạng, Đại Hàn, Nhật, Đức, Anh...
(Xem: 40512)
Đa số dân chúng là Phật tử thuần thành và số lượng tu sĩ khá đông đảo nên Miến Điện mệnh danh xứ quốc giáo với hai đường lối rõ rệt cho chư Tăng Ni: PHÁP HỌC (Pariyattidhamma) và PHÁP HÀNH (Patipattidhamma).
(Xem: 21247)
Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần để minh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
(Xem: 41046)
Đức Phật là người đầu tiên xướng lên thuyết Nhân bản, lấy con người làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại. Cuộc đời Ngài là cả một bài thánh ca trác tuyệt...
(Xem: 24091)
Tinh thần Bồ tát giới, không những được đề cao ở các kinh điển Bắc Phạn mà ngay ở trong kinh điển Nam Phạn hay Pàli cũng hàm chứa tinh thần này.
(Xem: 23036)
Không bao lâu sau khi Đức Thế Tôn nhập Niết bàn, tôn giả Đại Ca Diếp tập họp 500 vị đại Tỳ kheo tại giảng đường Trùng Các, bên dòng sông Di Hầu, thành Tỳ Xá Ly, để chuẩn bị kết tập kinh luật.
(Xem: 17828)
Biết Phật pháp, ứng dụng được Phật pháp vào đời sống của mình, đó là phước báu lớn nhất mà mình nhận được trong cuộc đời này. Bởi nhờ đó, mình đi không lầm lẫn.
(Xem: 26940)
Tập sách nhỏ này, là một tập tài liệu vô cùng quí giá, do sự tham khảo các kinh sách của Đức Thế Tôn để lại với các tài liệu tác giả đã sưu tầm và tham quan tại một số địa phương...
(Xem: 20717)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 33622)
Trong giới biên khảo, sử gia giữ một địa vị đặc biệt, vì sức làm việc phi thường của họ. Họ kiên nhẫn, cặm cụi hơn hết thảy các nhà khác, hi sinh suốt đời cho văn hóa...
(Xem: 20994)
Sân hận không thể vượt thắng bằng sân hận. Nếu người ta biểu lộ sân hận đến chúng ta, và chúng ta thể hiện giận dữ trở lại, kết quả là một thảm họa.
(Xem: 28897)
Nền giáo học của Phật giáo có nội dung rộng lớn tận hư không pháp giới. Phật dạy cho chúng ta có một trí tuệ đối với vũ trụ nhân sinh, giúp chúng ta nhận thức một cách chính xác...
(Xem: 12687)
Tập sách Lối về Sen Nở bao gồm những bài viết, bản dịch, bài tham luận trong các kỳ hội thảo, đăng rải rác trên các tạp chí, nguyệt san Phật giáo mấy thập niên qua.
(Xem: 25281)
Mọi người đều biết là Đức Phật không hề bắt ai phải tin vào giáo lý của Ngài và Ngài khuyên các đệ tử hãy sử dụng lý trí của mình dựa vào các phương pháp tu tập...
(Xem: 19131)
Con ơi, hãy can đảm vươn mình đứng dậy hiên ngang như con mãnh sư để nhìn ngắm cuộc đời, đừng sợ hãi lẩn tránh, cũng đừng toan tính gì hơn cho cuộc đời này nữa.
(Xem: 17514)
Lắng nghe hay ngắm nhìn thực tại thì có thể thực hiện bất cứ ở đâu và lúc nào vì tâm và cảnh luôn có mặt tại đây và bây giờ mà không cần chờ đợi một thời gian...
(Xem: 25769)
Thật vậy, trên bất cứ một khía cạnh nào, Đức Phật đều giữ cho tôn giáo của Ngài không bị vướng mắc vào những thứ cành lá chết khô của quá khứ.
(Xem: 19001)
Krishnamurti đã quan sát rằng chính động thái của thiền định, trong chính nó, sẽ sáng tạo trật tự cho sự hoạt động của suy nghĩ mà không có sự can thiệp của ý muốn...
(Xem: 18970)
Trong Đạo Phật, khi tâm thức chúng tatrình độ khởi đầu, chúng ta được dạy cho những sự thực hành nào đấy để thực tập. Khi qua những thực tập ấy, tâm thức chúng ta đã phát triển một ít...
(Xem: 29011)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 18899)
Tư tưởng Lão Tử rất nhất quán nên dù chỉ viết hai bài về Lão Tử Đạo Đức Kinh nhưng trong đó cũng liên quan hầu như toàn bộ tinh hoa đạo lý của nhà Đạo Học vĩ đại này.
(Xem: 33315)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38382)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31233)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 18219)
Người muốn thấu triệt pháp môn tu tập, xứng lý, hợp cơ, trước hết cần phải tạo cho mình có cái nhìn căn bản tổng quát về tôn giáo mình... HT Thích Bảo Lạc
(Xem: 24490)
Ðức Thế Tôn muốn cho thầy vun trồng thêm niềm tin nên Ngài mới dạy thêm rằng: Này Upakàjivaka, những người hết phiền não trong thế gian này là người thắng hóa trong mọi nơi.
(Xem: 19446)
Một trong những nhân tố chính yếu cung cấp năng lượng cho Cách Mạng Hạnh Phúc đã là sự nghiên cứu khích động phơi bày nhiều lợi ích của hạnh phúc – những hạnh phúc trải rộng...
(Xem: 17891)
Truyện thơ Tôn giả La Hầu La - Tác giả: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 23036)
Khi tại thế, Ðức Phật đi hoằng hóa nhiều nước trong xứ Ấn Ðộ, đệ tử xuất gia của ngài có đến 1250 vị, trong đó có Bà Ma Ha Ba Xà Ba Ðề...
(Xem: 18019)
Bởi vì sự mở mang một cái trí tốt lành là một trong những quan tâm chính của chúng ta, người ta dạy học như thế nào là điều rất quan trọng. Phải có một vun quén của tổng thể cái trí...
(Xem: 32183)
Tất nhiên không ai trong chúng ta muốn khổ, điều quan trọng nhất là chúng ta nhận ra điều gì tạo ra khổ, tìm ra nguyên nhân tạo khổ và cố gắng loại trừ những nhân tố này.
(Xem: 17379)
Ðối tượng của tuệ giác Phật họcthuyết minh tận cùng chân lý của vạn pháp. Khoa học đang khởi đầu bước lên trên con đường tận cùng chân lý của Phật học.
(Xem: 17427)
Với một sự sáng suốt tuyệt đối và một niềm thương cảm vô biên Ngài nhận thấy con người tác hại lẫn nhau chỉ vì vô minh mà thôi...
(Xem: 16068)
Muốn sáng tạo sự giáo dục đúng đắn, chắc chắn chúng ta phải hiểu rõ ý nghĩa của sống như một tổng thể, và muốn có điều đó chúng ta phải có thể suy nghĩ, không cố chấp...
(Xem: 18565)
Tôi thức dậy trong một sự yên tĩnh như thế ấy ở Pomona. Tiếng chim hót vang rừng những không thể nói là tiếng ồn. Nó lại càng làm cho sự yên lặng thêm sâu hơn về bề sâu là khác.
(Xem: 20764)
Ngày xưa có một chú tiểu Sa Di đến học Phật giáo với một vị thầy rất sáng suốt. Chú là một đứa đệ tử rất tốt. Chú rất lễ phép, thành thật và biết vâng lời.
(Xem: 18063)
Đóa sen, nếu nhìn dưới kính hiển vi và suy luận theo thiên văn học, là nền tảng của vũ trụ và cũng là một phương tiện giúp ta khám phá vũ trụ.
(Xem: 20104)
Mái Kim Các Tự làm bằng gỗ mịn thoai thoải dốc xuống. Đường nét kiến trúc vừa nhẹ nhàng vừa đẹp đẽ. Đó là một kiệt tác phẩm của lối kiến trúc đình viên...
(Xem: 14876)
Tác phẩm Đôi bạn hành hương (Công Chúa Tinh Khôi và Hoàng tử Ếch) là một điển hình trong cõi văn đầy màu sắc Phật giáo của Chiêu Hoàng.
(Xem: 20903)
Điều tôi muốn là con đường đưa đến sự chấm dứt mọi đau khổ, một con đường đã được khám phá hơn hai ngàn năm trăm năm nay nhưng mãi đến thời gian gần đây tôi mới ý thức được nó.
(Xem: 15069)
Đức Phậttiêu biểu tuyệt hảo về Từ, Bi, Hỷ Xả. Đó là Tứ Vô Lượng Tâm toàn bích, không một tỳ vết, thể hiện qua suốt cuộc đời thị hiện ta-bà của Ngài.
(Xem: 15760)
Cám ơn nàng. Nàng đã đem lại cho ta SỰ THẬT. Nàng đã cho ta thấy cái phi lý của tưởng tượng. Ta sẽ không còn ôm giữ một hình ảnh nào, vì Phật đã dạy: Pháp còn phải bỏ huống chi phi pháp.
(Xem: 12937)
Cha cô vẫn nói, cô giống mẹ từ chân tơ, kẽ tóc, vừa xinh đẹp, vừa tài hoa. Cha thương nhớ mẹ bao nhiêu là yêu quí cô bấy nhiêu.
(Xem: 14506)
Bàng bạc khắp trong tam tạng kinh điển, hằng hà sa số mẩu truyện, đức Phật thường nhắc đến sự liên hệ giữa Ngài và các đệ tử, giữa chúng sanh và Ngài trong những kiếp quá khứ.
(Xem: 14904)
Diệu nhắm mắt lại, không biết mình đang mơ hay tỉnh. Phép lạ nào đã biến đổi tâm hồn Quảng đến không ngờ?
(Xem: 29391)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 12767)
Giáo lý vô ngã đề cập trực tiếp đến cách thức mà chúng ta đang nhận hiểu về bản thân mình và thế giới quanh ta, chỉ ra những điểm hợp lý và bất hợp lý trong cách nhìn nhận đó.
(Xem: 14518)
Tôi thích nhìn ngắm những sự việc như chúng là và đối diện những sự kiện; thuộc cá nhân tôi không có cảm tính của bất kỳ loại nào, tôi xóa sạch tất cả điều đó.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant