Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

16. Nhìn Lại 50 Năm Xuất Gia...

17 Tháng Sáu 201400:03(Xem: 6345)
16. Nhìn Lại 50 Năm Xuất Gia...

Tổ Quy Sơn có dạy:

“Mạng bất khả duyên, thời bất khả đãi”.

Có nghĩa là:

“Mạng sống con người khó kéo dài,

Thời gian chẳng đợi ai”.

Thật vậy! Mạng sống con người ít ai sống được trăm năm, mà ngược lại có người lại bị giảm thọ thêm, bởi vì nhiều lý do khác nhau như: lãng phí sức khỏe, lo lắng suy nghĩ nhiều, tật bệnh, rủi ro tai nạn, và tạo nhiều nghiệp ác như sát sanh…

Thời gian cứ trôi qua, chẳng đợi chờ ai hết, nhưng mọi người ai ai cũng đều phải đợi chờ thời gian, vì nhiều lý do cá nhân khác nhau, chứ ít bao giờ thời gian mong đợi chúng ta.

Sư phụ của chúng tôiHòa Thượng Phương Trượng chùa Viên Giác ở thành phố Hannover, Đức Quốc, thượng Như hạ Điển, xuất gia từ thuở thiếu thời, khi trưởng thành thì đi du học ở Nhật, rồi sau đó thì hành đạolàm Phật sự ở Đức, cũng như ở Mỹ Châu và Úc Châu. Thấm thoát là 50 năm, kể từ ngày Sư Phụ xuất gia hành đạo, coi như cả cuộc đời dấn thân cho đạo pháp và dân tộc.

Mẹ của tôi là trưởng ban ẩm thực các khóa tu học của chùa Khuông Việt ở Na Uy, nên tôi cũng thường xuyên chở mẹ và các bác công quả đi chùa, nhờ vậy mà tôi có nhiều nhân duyên đến chùa và gần gũi quý Thầy.

Năm 19 tuổi tôi tham dự khóa học giáo lý ở Na Uy. Đây là lần đầu tiên học Phật pháp và được Hòa Thượng thượng Trí hạ Minh làm lễ quy y Tam Bảo. Lần đó đi học không hiểu gì cả, sao có nhiều từ ngữ chuyên môn Phật pháp mà quý Thầy giảng sao không hiểu, nên chi vào khóa học lo chơi và tìm bạn cho vui…

Ở Na Uy hằng năm vào dịp nghỉ lễ Noel và Tết tây, chùa Khuông Việt đều tổ chức khóa tu học Phật pháp 7 ngày. Và khóa học đã kéo dài hơn 20 năm, rồi trở thành thông lệ, do đó Phật tử thanh thiếu niên các nơi tự động tụ về tham dự. Nhờ có khóa học nên năm nào tôi cũng tham gia cho đến ngày đi xuất gia. Ngoài ra, tôi cũng đi tham dự khóa học Âu Châu vào mùa hè. Đặc biệt khóa học ở Hòa Lan, đây là lần đầu tiên tôi có duyên gặp Sư Phụ qua những buổi học Phật pháp và gặp những lúc ngoài giờ học. Tôi còn nhớ lần đầu gặp, Sư Phụ hỏi: “Con pháp danh là gì?, nhà ở đâu?, và có ăn chay không?”. Sau đó, Sư Phụ có cho tôi vài cuốn sách, và xin địa chỉ nhà để gởi báo chùa Viên Giác cho tôi đọc. Có thể, đây là thiện duyên, khiến cho tôi được gặp Sư Phụ.

Có lần Sư Phụ sang Na Uy đến chùa Khuông Việt thuyết pháp. Tôi đến gặp và thỉnh Sư Phụ cùng quý Thầy về nhà thăm. Không ngờ Sư Phụ nhận lời, nên sau buổi giảng tôi lái xe chở Sư Phụ và thầy Lệ Nguyên về nhà thăm. Khi đến nhà tôi quên chìa khóa làm cho Sư Phụ và thầy Lệ Nguyên phải đứng bên ngoài chờ, trong lúc mùa đông lạnh lẽo. Thầy Lệ Nguyên có vẻ lo sợ bị la, còn tôi thì thản nhiên như khôngvấn đề gì xảy ra cả!, có lẽ lúc đó Sư Phụ cũng hoan hỷ cười cho chú nhỏ nầy sao ngây thơ. Đúng như vậy! Thầy nào cũng nói: “Chú nầy điếc không sợ súng”. Chắc có lẽ mọi người ai cũng sợ cái oai nghinghiêm nghị của Sư Phụ nên mới nói như vậy.

Đầu năm 1997 tôi xin sang chùa Viên Giác tập sự tu học, và Sư Phụ đã đồng ý nhận lời, lúc đó tôi đang đi làm ở siêu thị Rimi Gunerus ở Oslo, nên tôi đã xin ông chủ nghỉ làm. Đến đầu tháng 07 năm 1997 tôi đến chùa Viên Giác công quả và tập sự tu học được 1 tháng. Ngày 31 tháng 07 năm 1997 chùa Viên Giác tổ chức đàn truyền giới, và nhân dịp nầy, Sư Phụ cho tôi xuống tóc xuất gia, kể từ đó tôi làm thị giả theo Sư Phụ đi hoằng pháp các khóa tu học Bát Quan Trai các nơi như ở Âu Châu, Mỹ Châu, và Úc Châu,… trong suốt 5 năm thị giả có nhiều kỷ niệm khó quên. Nhớ có lần Sư Phụ bảo đi làm lễ cầu an cho vài gia đình Phật tử ở Đức, sau đó đi chùa Khánh Anh ở Pháp, thăm thầy Minh Giác ở Hòa Lan, rồi về lại Đức. Chúng tôi đi 2 xe, thầy Hạnh Hòa lái xe Mini Bus của chùa chở ba mẹ của Thầy. Còn tôi chở Sư Phụ bằng xe Opel của thầy Hạnh Hòa. Sáng sớm 7 giờ xuất phát đi đến các nhà Phật tử ở miền trung Đức làm lễ cầu an. Khi làm lễ xong thì đi sang Pháp. Qua được biên giới Pháp là trời đã khuya gần 1 giờ đêm. Lúc đó trên đường xa lộ thật vắng vẻ, yên lặng, có lẽ mọi người cũng đang yên giấc ngủ. Đột nhiên có tiếng kêu cọc… cọc… cọc… rất lớn. Sư Phụ hỏi:

- “Hạnh Định, tiếng gì vậy?”.

Tôi vội trả lời:

- “Bạch Thầy! Máy bay trực thăng bay ở trên”.

Sư Phụ hỏi tiếp:

- “Máy bay gì nghe kỳ vậy?”.

Khi nghe như vậy, tôi giựt mình như vừa tỉnh ngủlật đật lái xe tắp vào lề liền và mở đèn chớp báo hư xe. Rất may là lúc đó ngoài đường không có chiếc xe nào cả. Sau đó, tôi ra khỏi xe và nhìn xuống lườn xe, thì ngửi mùi khét nghẹt. Tôi lại kiểm tra bánh xe, thì không có gì, vẫn nguyên vẹn, nên tôi đề máy xe và cho chạy tới thử xem sao, nhưng xe không di chuyển được nữa rồi, thì ra là trục cầu sau đã bị vỡ. Khi đó tôi biết được như vậy, tôi hoàn toàn tỉnh táo và lo sợ. Vì lúc đó đói bụng, buồn ngủ, bên ngoài lạnh lẽo. Ngoài đường không có ai cả, ngoài hai thầy trò, không biết kêu cứu ai. Thời đó chưa có điện thoại di động, nên liên lạc cũng khó hơn, thôi đành phải đứng ngoài trời đêm khuya lạnh lẽo mấy tiếng đồng hồ.

Trong khóa tu học Phật Pháp Âu Châu

Bỗng chợt từ xa phía trước có xe đang chớp đèn hư, và đang de lại, khi xe tiến gần thì phát giác ra là Sư Huynh Hạnh Hòa. Sư Huynh đã chạy trước, nhưng lâu quá không thấy xe của chúng tôi, nên Sư Huynh dừng và de lại một đoạn đường dài mấy chục cây số trên xa lộ. Tôi rất mừng và tán thán Sư Huynh. Sư Huynh lúc đó 24 tuổi là sinh viên đại học ở thành phố Hannover. Sư Huynh học rất giỏi và thôngHuyhhhhjk

minh lanh lẹ vô cùng. Chúng tôi bỏ xe ở xa lộ và Thầy trò sang qua xe Mini bus. Đoạn đường còn lại tới Paris khoảng 200 km mà hai huynh đệ phải đổi tài với nhau rất nhiều lần, vì mệt và buồn ngủ không sao lái nổi, nhưng cũng may về tới chùa Khánh Anh an toàn. Hôm sau, Sư Huynh Hạnh Hòa liên hệ công ty bảo hiểm, an bài một chiếc xe khác, nhờ vậy mà tôi chở Sư Phụ đi tiếp Hòa Lan, rồi về lại Đức. Đây là một trong chuyến đi Phật sự đầy ấn tượng trong đời của tôi.

Nói tới đây làm tôi nhớ thêm một chuyện vui. Khi mới đến Chùa Viên Giác vài hôm, Sư Phụ bảo lái xe đi Đông Âu, là đi nước Tiệp Khắc và Ba Lan. Khi đó tôi lái xe Mini Bus của Chùa chở Sư Phụ và quý Phật tử, và anh Đức Thụ lái một chiếc xe khác chở gia đình bác Minh Tôn (Anh Đức Thụ là Thầy Hạnh Giới bây giờ, lúc nầy anh là huynh trưởng Gia Đình Phật Tử Tâm Minh ở Hannover). Cuộc hành trình là viếng thăm Tiệp Khắc trước, sau là nước Ba Lan. Khi qua đến Ba Lan, có một đoạn đường thôn quê, thì tôi đã thấy phía trước có đường rầy xe lửa. Khi tiến tới gần thì tôi bắt đầu giảm tốc độ, vì thấy có bóng đèn chớp… chớp… Ở Đức thì một là đỏ, hai là xanh, còn ở đây thì cứ chớp. Do đó, Sư Phụ nghĩ chắc là đèn nầy hư rồi, thôi không sao và nói: “Chạy đi”. Tôi vô số một và đạp ga thật mạnh để vượt qua. Khi xe chạy qua được phân nửa, thì cái cây cản hạ xuống và đập vào trên mui xe kêu cái “ầm”. Mọi người ai cũng la: “Á”, tôi giựt mình thêm ga để vượt qua luôn. Khi qua rồi, ai trên xe cũng hết hồn và tức cười. Sư Phụ nói: “Ở Đức có đèn xanh, đỏ để biết, còn ở đây cứ chớp hoài không biết sao mà lường”. Rất may xe không bị móp hay trầy sơn gì. Nhìn chung các chuyến đi Phật sự với Sư Phụ đều viên mãn tốt đẹp.

Năm 2002 lễ khánh thành Trung Tâm Tu Học Viên GiácẤn Độ. Sư Phụ và các Sư Huynh đề cử tôi sang làm Tri sự trông coixây dựng thêm phần còn lại mà chưa được hoàn thành.

Thời gian 5 năm làm thị giả, tôi cảm thấy nhiều tiến bộtinh tấn. Sư Phụ thì rất đúng giờ, và giữ thời khóa công phu khuya rất đều đặn. Nhiều lần lái xe xa bốn đến năm trăm cây số, ở Đức phải chạy tốc độ cao, thì phải tập trung, mở mắt to và quan sát thật kỹ, tới nơi đã tối, và ngủ lại nhà Phật tử, đã vậy mà sáng nào cũng dậy sớm công phu tụng chú Lăng Nghiêm. Nhiều lúc mệt lắm và thèm ngủ, vì hai con mắt không mở lên được nữa, nên miệng thì đọc chú, còn mắt thì cứ nhắm lại, mong sao ngủ lại thì hạnh phúc biết mấy!

Phải thành thật mà nói, thời gian đầu xuất gia, tôi thèm ngủ lắm, vì ngủ rất ít. Lúc đó, tôi làm thị giả và tài xế, nên chi mỗi tuần 3 ngày vào thứ năm đến chủ nhật là chở Sư Phụ lo khóa tu Bát Quan Trai ở các Chi Hội, ngoài ra những dịp lễ Tết, lễ Phật Đản, và lễ Vu Lan là cũng đi các Chùa ở Đức và những nước phụ cận như Hòa Lan, Đan Mạch, Tiệp Khắc, v.v… Những ngày thường từ thứ hai tới thứ năm tôi phụ lo công việc Chùa như làm báo, và chở đi gởi, làm thị giả lau dọn phòng Sư Phụ, nấu ăn 1 tuần 1 ngày. Nhưng may lắm! Mỗi lần tới ngày của tôi thì Quý Sư Tỷ, Sư Muội vào phụ, mỗi người một món, vì sợ tôi nấu rồi, thì đại chúng chắc chỉ nhìn, rồi le lưỡi với những khẩu vị quá xa lạ… hi hi…! Sau giờ ăn chiều, tôi làm hương đăng, lau dọn chánh điện. Thời đó tôi cũng còn sợ ma lắm. Vào mùa đông, buổi tối trong Chùa yên lặng, vắng vẻ, lạnh lẽo và ánh sáng lúc ẩn, lúc hiện, là vì bóng đèn chỉ cháy 10 phút là tự động tắt. Nhất là khi lau bàn thờ ở nhà linh. Trên bàn thờ thường có những tấm hình của những người mới mất và bên cạnh là những hũ cốt. Do đó, trước khi rút chân nhang, và lau bàn thờ, thì tôi nhấn nút bóng đèn trước, sau đó chạy nhanh tới các lư hương và rút nhang ra thật nhanh. Trước khi lau cũng làm động tác như vậy, là nhấn nút đèn trước, rồi tới lau ba lần bảy hai mươi mốt, rồi chạy tới nhấn nút tiếp sao cho đừng để tắt đèn đột ngột. Lỡ đèn tắt mà bóng đen hay bóng trắng nào đó hiện lên, thì chắc tôi xỉu luôn. Nhưng sau vài tháng lau dọn, tôi làm quen với những tấm hình hương linh và hũ cốt đó, nên nhờ vậy mà giờ can đảm ra…

Trong bốn ngày ở Chùa tôi học thêm tiếng Đức mỗi tuần 3 ngày, 2 ngày học với Sư Phụ, và 1 ngày học tiếng Phổ Thổng (tiếng Mandarin). Sư Phụ dạy một buổi học Đại Trí Độ Luận, và một buổi học luật Sa Di bằng tiếng Hán Văn. Nói tới đây là tôi bị ám ảnh. Khi tôi vào học, thì các Sư Huynh đã giỏi rồi. Tôi cũng may là đã học ở nhà trước khi vào Chùa, nên chi cũng tạm theo kịp. Còn Quý Cô và quý Sư Đệ thì vô cùng sợ khi tới giờ khảo bài. Nhất là chú Hạnh Trí. Chú học hát dân ca bắc bộ và nam bộ thì thuộc nhanh lắm, nhưng kinh kệ thì khó vô cùng, nhất là học chữ Hán Văn. Chú không nhớ nổi, nên mỗi lần trả bài thì Sư Phụ la hét, ai cũng đều run cả. Có lúc Sư Phụ giận và ký đầu Chú và ký luôn tôi. Nhiều lúc tôi nghĩ: “Mình thuộc bài mà cũng bị ký, chẳng lẽ tại ngồi kế Chú nầy thì phải?”.

Mỗi tuần có một buổi học tiếng Phổ Thông, do một sinh viên Đài Loan ở Hannover chỉ lại. Khi tôi vào tham dự, thì Sư Phụ, Ni Sư Như Viên, thầy Hạnh Bảo, thầy Hạnh Hòa đã học trước rồi. Mỗi lần học mấy trang giấy, mà tôi thì mò học từng chữ. Vậy mà cuối cùng lớp học chỉ còn lại hai Thầy trò học thôi. Sư Phụ bảo tôi phải lo chỉ dạy giáo lý cho Gia Đình Phật Tử Tâm Minh. Lúc đó, tôi mới xuất gia được sáu tháng. Tôi phải lo soạn bài cho các em, đặc biệt là nhờ cô Nga (Thư kývăn phòng). Cô rất mến tôi và cho mượn máy, và chỉ cho tôi cách đánh máy vi tính. Thời đó máy vi tính sử dụng chương trình Windows. Tôi thành thật cám ơn Cô rất nhiều. Việc đi Phật sự, việc chấp tác ở Chùa, và việc học thật nhiều với tôi trong thời gian đầu. Do đó, tôi cũng phải nỗ lực tận dụng thời gian buổi trưa và buổi tối để học. Bởi vậy thời gian ngủ rất ít, nên thèm ngủ lắm! Tôi còn nhớ mỗi buổi sáng tụng chú Lăng Nghiêm, thì ngực của tôi bị lạnh, mà tôi không biết tại sao? Còn nước mũi thì chảy ra hoài. Nên một tay thì đánh mỏ, còn một tay thì lau mũi.

Ở những khóa Bát Quan Trai, Sư Phụ thuyết giảng, còn tôi hướng dẫn tụng niệm. Thầy trò kết hợp nhịp nhàng vô cùng, nhờ vậy mà tôi học hỏi kinh nghiệm tổ chức các khóa tu, cũng như về phương diện giảng dạy. Đó là cái ân đức của Sư Phụ mà tôi nhớ hoài. Thời còn làm thị giả, tôi được đi các nơi như Úc Châu, Mỹ Châu, v.v… có đi như vậy mới mở mang kiến thức, hiểu biết. Do đó, người ta thường nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”.

Năm nay kỷ niệm 50 năm xuất giahành đạo của Sư Phụ, làm tôi giựt mình nhớ lại những kỷ niệm thầy trò năm xưa. Thời gian qua mau quá. Đúng là thời gian chẳng chờ ai! Nhìn lại 50 năm qua thật nhanh như vậy, nhưng Sư Phụ cũng phải chịu biết bao sóng gió để xây dựng chùa Viên Giácviên thành mọi Phật sự ở các Âu. Tôi rất vui mừng khi Sư Phụ đã hoàn thành sứ mạng hoằng pháp lợi sanh.

Quý Tổ thường dạy:

“Nhứt bát thiên gia phạn, cô thân vạn lý du,

Kỳ vi sanh tử sự, thuyết pháp độ xuân thu”.

Nghĩa là:

“Một bát cơm ngàn nhà, một mình muôn dặm xa,

Chỉ vì chuyện sanh tử, thuyết pháp độ xuân qua”.

Coi như là cả cuộc đời Sư Phụ đã hiến dâng cho Giáo Hộichúng sanh. Nhưng tôi cũng hơi buồn và lo, mặc dù như vậy, nhưng mái tóc của Sư Phụ đã bạc hết rồi.

Tổ Quy Sơn có dạy:

“Nhựt vãng nguyệt lai, táp nhiên bạch thủ”.

Nghĩa là:

“Ngày qua tháng lại, hốt nhiên bạc đầu”.

50 năm mà còn thấy nhanh như là giấc chiêm bao, thì thời gian còn lại so với 50 năm qua ít hơn nhiều, chắc sẽ mau lắm ai ơi!

Con xin cúi đầu đảnh lễ Sư Phụ và niệm ân. Con cầu nguyện chư Phật, Bồ Tát gia hộ Sư Phụ pháp thể nhẹ nhàng, sống lâu ở đời để dìu dắt bá tánh chúng sanh cầu sanh Tịnh Độ.

Nam mô A Di Đà Phật!

Viết xong tại Hàn Quốc ngày 26 tháng 04 năm 2014

Con Thích Hạnh Định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 34403)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 16886)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 22993)
Một chút ánh sáng nhỏ nhoi, giúp con soi tỏ những giọt mồ hôi không hình nơi mẹ. Nhưng phải tự khi làm mẹ, mới thấu vô vàn cái nhọc mẹ mang.
(Xem: 13070)
Ra khỏi bóng tối - Thích Nữ Diệu Nghiêm dịch
(Xem: 21994)
Hôm nay, mùa Vu Lan báo hiếu lại trở về trên xứ Việt, hòa chung với niềm vui lớn này, xin được san sẻ cùng em đôi điều về đạo hiếu của con người.
(Xem: 22237)
Ngài Mục Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếubáo ân. Ngài đã thực hành phép sám hối để báo ân mà cứu được mẹ thoát khỏi địa ngục.
(Xem: 14886)
Kinh Phạm Võng dạy rằng “Người Phật tử nếu lấy tâm từ mà làm việc phóng sinh thì thấy tất cả người nam đều là cha mình, tất cả người nữ đều là mẹ mình.
(Xem: 23615)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 24158)
Cái chết theo Tan-tra thừa là một quá trình tan biến tuần tự của thân xác vật chấttâm thức, các hiện tượng tan biến này được phân loại thành nhiều cấp bậc...
(Xem: 23689)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 17170)
Tôi đã lắng nghe Krishnamurti suốt nhiều ngày. Tôi đến những nói chuyện của ông, tham gia những bàn luận, ngẫm nghĩ...
(Xem: 19387)
Chính Ðức Phật đã dạy: “Trong các sự bố thí chỉ có Pháp thícông đức lớn nhất, không có công đức nào sánh bằng” ... Thích Chân Tính
(Xem: 27110)
Phật-pháp là trí tuệ thực nghiệm dạy chúng ta nhận định được bản chất căn bản của chúng tagiải thoát chúng ta khỏi sự sa đọa thành nạn nhân đối với những huyễn tượng...
(Xem: 14438)
Hiện nay câu hỏi này là một quan tâm chính đối với mọi người, bởi vì khoa học và công nghệ hiện đại đã phơi bày rõ ràng những khả năng xảy ra sự hủy diệt to tát.
(Xem: 13864)
Điều gì cần thiết là một cái trí không bị hành hạ, một cái trí rất rõ ràng. Và một cái trí như thế không thể hiện diện được nếu nó có bất kỳ loại thành kiến nào.
(Xem: 22713)
Đức Phật Thích Ca Mâu NiPhật Bảo. Ba tạng kinh luật luận do đức Phật Thích Ca Mâu Ni thuyết ra là Pháp Bảo. Chư tăng đệ tử xuất gia của Phật đàTăng Bảo.
(Xem: 14778)
Điều lạ thường nhất về sống của Krishnamurti là những lời tiên tri được nói về anh trong thời thanh niên đã thành hiện thực, tuy nhiên trong một hướng khác hẳn điều gì được mong đợi.
(Xem: 17387)
Để có thể lắng nghe thực sự, người ta nên buông bỏ hay gạt đi tất cả những thành kiến, những định kiến và những hoạt động hàng ngày.
(Xem: 12699)
Nhìn vào toàn chuyển động của sống này như một sự việc; có vẻ đẹp vô cùng trong nó và năng lượng vô hạn; thế là hành động là trọn vẹn và có sự tự do.
(Xem: 13893)
Lúc này chúng ta hãy quan sát điều gì đang thực sự xảy ra trong thế giới; có bạo lực thuộc mọi loại; không chỉ phía bên ngoài mà còn cả trong sự liên hệ lẫn nhau của chúng ta.
(Xem: 10429)
Một cái trí chuyên biệt hóa không bao giờ là một cái trí sáng tạo. Cái trí mà đã tích lũy, mà đã đắm chìm trong hiểu biết, không thể học hành.
(Xem: 14729)
Khi năng lượng không bị hao tán qua sự tẩu thoát, vậy thì năng lượng đó trở thành ngọn lửa của đam mê. Từ bi có nghĩa đam mê cho tất cả. Từ biđam mê cho tất cả.
(Xem: 17222)
Ngài giáng sinh nơi vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini), thành đạoBồ Đề Đạo Tràng (Bodh Gaya), thuyết bài Pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Sarnath) và nhập Niết Bàn tại Câu Thi Na...
(Xem: 12574)
Chúng tathói quen tạo ra một trừu tượng về sợ hãi, đó là, tạo ra một ý tưởng về sợ hãi. Nhưng chắc chắn, chúng ta không bao giờ lắng nghe tiếng nói của sợ hãi đang kể câu chuyện của nó.
(Xem: 12744)
Có một khác biệt giữa không gian bên ngoài, mà vô giới hạn, và không gian bên trong chúng ta hay không? Hay không có không gian bên trong chúng ta gì cả và chúng ta chỉ biết không gian bên ngoài mà thôi?
(Xem: 10389)
Chúng ta là kết quả của những hành động và những phản ứng của mỗi người; văn minh này là một kết quả tập thể. Không quốc gia hay con người nào tách rời khỏi một người khác...
(Xem: 28738)
Đức Đạt-Lai Lạt-Ma khích lệ chúng ta hãy triển khai lòng tốttình thương yêu mà Ngài luôn luôn quả quyết là những phẩm tính ấy đều đã có sẵn trong lòng mỗi con người chúng ta.
(Xem: 10729)
Sự liên hệ giữa bạn và tôi, giữa tôi và một người khác, là cấu trúc của xã hội. Đó là, liên hệ là cấu trúc và bản chất của xã hội. Tôi đang đặt vấn đề rất, rất đơn giản.
(Xem: 11154)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
(Xem: 16905)
Phật pháp cho trẻ em - Tác giả: Jing Yin và Ken Hudson - Minh họa: Yanfeng Liu - Biên soạnchuyển ngữ: Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 15797)
“Đông du” ngày nay đã trở thành một từ quen thuộc. Không chỉ đối với các nhà thám hiểm, khách du lịch, người khảo sát văn hóa, mà cả những nhà khoa học, nhà triết học.
(Xem: 13360)
Khai sáng không lệ thuộc thời gian. Thời gian, ký ức, hồi tưởng, nguyên nhân – chúng không tồn tại; vậy thì bạn có thấu triệt, thấu triệt tổng thể.
(Xem: 12572)
Sự lèo lái của sinh lý học, mặc dù là một phần của điều mà phương Tây chúng ta gọi là “tự nhiên,” từ quan điểm Phật giáo, chính là một phần cơ cấu của luân hồi sinh tử.
(Xem: 11394)
Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
(Xem: 13053)
Thiền định là hành động mà đến khi cái trí đã mất đi không gian nhỏ xíu của nó. Không gian bao la này mà cái trí, cái tôi, không thể đến được, là tĩnh lặng.
(Xem: 19334)
Lắng nghe là một nghệ thuật không dễ dàng đạt được, nhưng trong nó có vẻ đẹp và hiểu rõ tuyệt vời. Chúng ta lắng nghe với những chiều sâu khác nhau của thân tâm chúng ta...
(Xem: 12284)
Chắc chắn, giáo dục không có ý nghĩa gì cả nếu nó không giúp bạn hiểu rõ sự rộng lớn vô hạn của cuộc sống với tất cả những tinh tế của nó, với vẻ đẹp lạ thường của nó, những đau khổhân hoan của nó.
(Xem: 28664)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 10071)
Chúng ta dường như không bao giờ nhận ra rằng nếu mỗi người chúng ta không thay đổi triệt để trong căn bản thì sẽ không có hòa bình trên quả đất...
(Xem: 21595)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 12816)
Kêu gọi thế giới là tựa của một quyển sách vừa được phát hành tại Pháp (ngày 12 tháng 5 năm 2011), tường thuật lại cuộc tranh đấu bất-bạo-động của Đức Đạt-Lai Lạt-Ma hơn nửa thế kỷ nay...
(Xem: 17854)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
(Xem: 26304)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 11729)
Tốt lành chỉ có thể nở hoa trong tự do. Nó không thể nở hoa trong mảnh đất của thuyết phục dưới bất kỳ hình thức nào, cũng không dưới bất kỳ cưỡng bách nào...
(Xem: 10873)
Mọi hình thức thiền định có ý ‎thức không là một sự việc thực sự: nó không bao giờ có thể là. Cố gắngdụng ý khi thiền định không là thiền định.
(Xem: 22785)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 12070)
Ngôi chùa nhỏ nằm khiêm tốn trong khoảng đất rộng đầy cây trái. Buổi tối, mùi nhang tỏa ra từ chánh điện hòa với mùi thơm trái chín đâu đó trong vườn.
(Xem: 10622)
Trước khi thành Thiền sư, Trúc Lâm đại sĩ đã từng làm vua nước Đại Việt. Đó là vua Trần Nhân Tông, người đã từng đẩy lui cuộc xâm lăng của quân Mông Cổ.
(Xem: 11427)
Tất cả mọi pháp hiện hữu, bắt đầu là cái Tôi, chẳng là gì cả ngoại trừ là những thứ được định danh. Không có các uẩn, không có thân, tâm, ngoại trừ những gì đã được ta quy gán.
(Xem: 11549)
Tư tưởng vị tha mong đạt được giác ngộ vì tất cả chúng sanh là một quan điểm vô cùng kỳ diệu! Khi bạn phát bồ đề tâm, bạn bao gồm tất cả mọi người, mọi loài trong ý tưởng làm lợi lạc cho họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant