Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chú thích

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11238)
Chú thích

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank

Chú thích
1. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyi rdzogs rim bar do drug gi khrid yig, một gter ma của Đức Padmasambhava được Karma Lingpa phát hiện (Kar ma gling pa). Quyển 3 của sự xuất bản vòng Kar gling zhi khro từ thư viện của Dudjom Rinpoche (I – Tib – 1440, 75-903780). Một bản dịch khác của phần đầu tiên về tiêu đề Sự Hiện Lên Tự Nhiên Của Hiền Minh Và Phẫn Nộ Từ Sự Nhận Biết Giác Ngộ. Trong lần phiên dịch thứ hai này, thuật ngữ zhi khro ám chỉ sadhana, dgongs pa đến nhận biết giác ngộ của tác giả và rang drol đến sự xuất hiện tự phát của bản văn từ nhận biết giác ngộ đó. 
2. Về cuộc đờiviệc làm của Đức Padmasambhava, hãy xem Đức Liên Hoa Sanh: Tiểu sử cuộc đời Đức Padmasambhava của Yeshe Tsogyal, Erik Pema Kunsang phiên dịch (Boston: Shambhala, 1993).
3. Với nhiều thông tin hơn về truyền thống kho tàng chôn dấu và phát hiện, hãy xem quyển Các Giáo Lý Chôn Dấu Của Tây Tạng: Một Giải Thích Về Truyền Thống Terma Của Phái Nyingma Của Phật Giáo, Tulku Thondup (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1997).
4. Bar do thos sgrol, hay nguyên nghĩa là Giải Thoát Qua Việc Nghe Trong Trạng Thái Trung Gian. Tác phẩm quan trọng này đã được dịch nhiều lần, gần đây nhất là của Robert A.F. Thurman, Tử Thư Tây Tạng, (New York: Bantam Books, 1994).
5. Khi thuật ngữ Tây Tạng bardo (nghĩa đen, “khoảng giữa”) đặc biệt ám chỉ đến giai đoạn sau khi chết và trước lúc tái sanh, người ta có thể dịch một cách thông dụng là “trạng thái trung gian”. Nhưng trong bối cảnh của sáu bardo, bao gồm tất cả samsara và nirvana, thuật ngữ “trạng thái trung gian” việc dịch cho chữ bardo không còn có ý nghĩa. Trong bối cảnh này, ý nghĩa của thuật ngữ bardo là chỉ mọi giai đoạn của lúc sống, thiền định, giấc mộng v.v... không ngoại lệ đều là sự chuyển tiếp. Mọi giai đoạn của cuộc sống và cái chết đều xảy ra giữa các trạng thái này. Tất cả chúng đều trong tiến trình. Để phản ánh khía cạnh này của thuật ngữ, tiến trình chuyển tiếp trong bối cảnh này đã được dịch là bardo.
6. Bar do’I nyams khrid dgongs pa rang grol gyi sngon ‘gro rang rgyud ‘dul byed lhan thabs.
7. gSang sngags rdo rje theg pa’i chos spyod thun bzhi’i rnal ‘byor sems nyid rang grol.
8. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol las bar do’i smon lam gsum.
9. Bar do’i smon lam thob tshad rang grol.
10. Bar do ‘phra sgrol gyi smon lam.
11. Bar do ‘jigs skyob pa’i smon lam.
12. Sangs rgyas và byang chub sems dpa’ la ra mda’ sbran pa’i smon lam.
13. Zab chos zhi khro dgongs pa rang grol gyhi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
14. sKu gsum bla ma’i rnal ‘byor gyi gsol ‘debs sku gsum klong yangs rang grol.
15. Tám mối quan tâm thế giantham luyến có được vật chất, khoái lạc tạm thời, được tán dương, và nổi tiếng; và ghét bị mất mát vật chất, khó chịu tạm thời, bị lăng mạ và mang tiếng xấu.
16. Mặc dù ba hiện thân Phật được nhắc đến ở trên, đều không có mâu thuẫn vì Nirmanakaya và Sambhogakaya chỉ là hai phân chia phụ của Rupakaya; Dharmakaya tương tự trong cả hai sắp xếp phân loại.
17. Tham luyến, sân hận, ảo tưởng, ghen tị, và kiêu mạn.
18. Sự thiền định về cuộc sống làm người có nhàn rỗithuận lợi là quý, về vô thường và cái chết, về đau khổ của chu trình sinh tử và về bản chất của hành động với hậu quả đúng quy cách của nó.
19. Chữ kiên trì trong Anh ngữ là tương đối yếu. Ở Tây Tạng, thuật ngữ ám chỉ sự hoan hỷ trong Giáo Phápđạo đức. Cũng thường được dịch là nồng nhiệt hay nhiệt thành kiên trì, nhưng nó thực sự là hoan hỷ và nhiệt thành cho thực hành Giáo Pháp.
20. “Dòng dõi tốt” ám chỉ có tiềm năng to lớn và cơ hội để thực hành Giáo Pháp.
21. Đó là sáu trạng thái của vòng sinh tử.
22. Tri kiến bản thể học bao gồm việc biết mọi sự như “chúng thực sự là” (ji ltar) và tri kiến hiện tượng học bao gồm việc biết sự vật “nhiều như nó là” (ji snyed).
23. “Đấng Chiến Thắng” (Phạn jina, Tạng rgyal ba) là một tên gọi của Đức Phật biểu thị Đức Phật hoàn toàn chiến thắng các trạng thái tâm thức tiêu cực bao gồm vô minh.
24. Tam giớidục giới, sắc giớivô sắc giới.
25. Thuật ngữ tiếng Phạn sugata là một chữ khác cho một vị Phật toàn giác.
26. Thuật ngữ tiếng Phạn arya (Tạng, ‘phags pa) ám chỉ các hành giả đã giác ngộ phi thiền định về chân lý tối thượng.
27. Theo Bod rgya tshig mdzod chen mo (Tse tan zhab drung. Dung kar blo bzang phrin las, và Dmu dge bsam gtan. Mi rigs dpe skrun khang, 1984, Quyển III, trang 2783, thuật ngữ Tây Tạng lu gu rgyud nghĩa đen có nghĩa sợi dây cột các con cừu cùng trong một hàng. Dường như được sử dụng ở đây như một ẩn dụ cho một bộ phận hay các chuỗi hợp thành nối kết với nhau. Ý nghĩa này phản ánh từ nguyên học của thuật ngữ, vì lu gu là phát âm khác của lug gu, có nghĩa “con cừu” [Ibid., trang 2781&2782]; và rgyud có nghĩa tiếp tục. Để đơn giản, tôi dịch lu gu ở đây như bộ phận.
28. Các vị bảo tồn-samaya là một bộ bảo vệ hay bảo hộ giúp duy trì samaya.
29. Một nguồn mà người đọc quan tâm ở đây có thể bắt đầu là quyển Học Phái Nyingma Của Phật Giáo Tây Tạng: Nền Tảng Và Lịch Sử (Boston: Nhà Xuất bản Trí tuệ, 1991) của Ngài Dudjom Rinpoche.
30. Bốn liên tục ở đây là bốn dòng tâm thức phiền não được tịnh hóa bằng phương tiện của bốn quán đảnh.
31. Thực hành nền tảng bao gồm việc lắng nghe, suy nghĩthiền định về Giáo Pháp.
32. Một tư thế đặc biệt của thân hay luyện tập được biết ở Tây Tạng như trul khor (‘phrul ‘khor).
33. Theo nghĩa đen là nhau bơm phồng.
34. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Phạn hay Tây Tạng, visarga được quán tưởng là hai chấm (:) bên phải của chữ. Khi quán tưởng chữ trong tiếng Anh, visarga tiêu biểu cho chữ h với dấu chấm ở dưới.
35. Đây là một đồng nghĩa với Phật tánh và tathagatagarbha.
36. “Con mắt duy nhất, không gợn nhơ của trí tuệ bổn nguyên” là một nhóm chữ rút từ bản văn, bày tỏ danh hiệu của Đức Manjusri.
37. “Hoàn toàn trống rỗng” là trống rỗng của đoạn kiến, hoàn toàn không có gì.
38. Chữ “dấu hiệu” ám chỉ điều gì đó gần gũi vơi quan niệm phương Tây của chúng ta về việc xây dựng dựa trên khái niệm. Dharmakaya không đặt nền tảng trên bất cứ khuôn mẫu khái niệm nào hoặc xây dựng dựa trên khái niệm.
39. Trình bày này ngụ ý trí tuệ bổn nguyên của hành giả nhận thức mọi khía cạnh của thực tại một cách bình đẳng.
40. Năm dấu hiệu của thân là năm nguyên tố đất, nước, v.v...
41. “Sự thêm vào” là sự quy vào thực tại về điều gì đó không có ở đó, trong lúc chối bỏ sự phản bác của hiện hữu về điều gì đó có ở đó.
42. Khẳng định này không được nhầm lẫn với khái niệm hữu thần của một đấng sáng tạo bên ngoài, hoặc chúa tể của vũ trụ, vì nhận biết này là bản tánh của toàn bộ samsara và nirvana.
43. Đây là một vấn đề của sự cố gắng quá sức, thực hành thật mãnh liệt khiến chính nhận thức của trạng thái mộng xảy ra khỏi giấc ngủ.
44. Điều này ám chỉ cả hai huyễn thân thanh tịnhbất tịnh.
45. Đó là, sự tính toán của chiêm tinh học không thích hợp với thực hành này; nó được theo sau vào mọi lúc.
46. Bản tánh tưởng tượng được phóng chiếu, nhưng bản tánh chính nó là sự nguyên thủy.
47. Lỗ mở của sự trở thành là lỗ mở cho chất dịch tái sanh của nam và nữ.
48. Trong thực hành như đã dạy ở đây, bạn nói “HIG-KA” cho toàn bộ tiến trình kéo bindu lên trên và đưa nó xuống dưới. Nhưng theo một số truyền thống khác, bạn nói “HIG-HIG-HIG-HIG” khi kéo bindu lên và sau đó nói “KA” khi để nó đi xuống.
49. “Tụ hội trong cuộc sống” ngụ ý đem cuộc sống bạn đến kết thúc một khi dấu hiệu hiển nhiên của cái chết đến gần và bạn đã xác định rằng không thể ngăn được cái chết.
50. “Các đối tượng đặc biệt cho việc tích lũy công đức,” là lãnh vực công đức như việc chọn bổn tôn, tất cả đối tượng quy ysùng kính.
51. Thuật ngữ yaksa bao gồm nhiều loại chúng sanh khác nhau, nhưng ở đây có thể ám chỉ asura hay người khổng lồ có thể giúp đỡ hay ngăn cản những chúng sanh khác. Yaksa cũng là tên của một loại chúng sanhtài sản, và thuật ngữ Tây Tạng tương đương cũng ám chỉ một loại súc vật đặc biệt.
52. Điều này nhắc đến Đức Avalokiteshvara hoặc bất cứ đối tượng niềm tin nào của người sắp chết.
53. “Các lỗ mở” ám chỉ hai mắt.
54. Citta ở đây có nghĩa trái tim.
55. Nói chung, đó là nếu bạn đạt đến giai đoạn này của thực hành, bạn sẽ không phải kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp sau khi chết. Hoặc thậm chí nếu bạn thực sự kinh nghiệm tiến trình chuyển tiếp này, bạn sẽ nhận ra bản tánh của nó và đạt được tỉnh giác lập tức.
56. Điều này ám chỉ người đã rèn luyện thành thạo trong giai đoạn phát triểnhoàn thiện.
57. Chúng sanh có thể so sánh là người có điều gì đó chung với chính mình trong tiến trình chuyển tiếp.
58. Đó là ba mươi hai dấu hiệu và tám mươi biểu tượng đôi khi được gọi là các dấu ấn chính và phụ của một vị Phật.
59. Điều này ám chỉ khả năng nhận ra giáo lý Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
60. Trong bối cảnh này, nơi hoang dã là nơi bạn hoàn toàn đơn độc, không bạn bè, người đồng hành, hoặc sự hỗ trợ.
61. Lãnh vực của sự rộng mở bao la phi tạo tác ám chỉ tính phi hiện hữu về đối tượng của bài nguyện này, của tác nhân bài nguyện và hành động cầu nguyện. Nó không phải hoàn toàn không hiện hữu; đúng hơn tất cả chúng đều là bản tánh của sự nhận biết.
62. Chủ nhân của ba gia đình là Vajrapani, Avalokiteshvara và Manjusri.
63. Sáu vị Đại Uyên Bác là sáu bậc giác ngộ, mỗi vị xuất hiện trong một của sáu trạng thái luân hồi sinh tử. Ví dụ, Đức Phật Sakyamuni là bậc Đại Uyên Bác của cõi người, và có những vị khác cho asura, deva, v.v...
64. Thuật ngữ này có nghĩa không thể tiên đoán, nói khác đi, nó không theo một số khuôn mẫu hay trật tự được xác định trước.
65. Nơi này được định vị trong cõi tịnh độ Sukhavati của Phật Amitabha.

 



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14309)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14572)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11847)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14372)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14652)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25271)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27906)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26383)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17246)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16531)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15924)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22158)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17142)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24945)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22001)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19085)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16177)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16796)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14675)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16718)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25035)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18791)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21200)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14782)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14379)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16624)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18018)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12938)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14952)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12731)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13896)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14619)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28053)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27226)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14355)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20993)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14675)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24205)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28710)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14744)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13304)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16468)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27263)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12022)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21518)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant