Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

07 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11357)
Bảng Chú Giải Thuật Ngữ

PADMASAMBHAVA

GIẢI THOÁT TỰ NHIÊN
Giáo lý của Đức Padmasambhava về Sáu Bardo
Luận Giảng: Ngài Gyatrul Rinpoche - Phiên dịch: B. Alan Wallace 
Dịch Việt: Tuệ Pháp - Nhà Xuất bản Trí tuệ, Boston 
blank
blank

Bảng Chú Giải Thuật Ngữ


Abhidharma. Giáo lý A Tỳ Đàm. Hệ thống hiện tượng học và thần học của đạo Phật, bao gồm sự mô tả và phân tích thân và tâm con người, các bộ chúng sanh, bản chất và sự hình thành vũ trụcon đường đến giải thoát.
Adhisara. (Tạng, ‘phrul ‘khor) Các tư thế và luyện tập của thân dùng để nâng cao thực hành thiền quán của hành giả.
Anuyoga. Một loại thực hành tantric của Nyingma, tương ứng với giai đoạn hoàn thiện. Thực hành Anuyoga theo sau Mahayoga và tiến đến Atiyoga.
Lỗ mở của địa ngục. Hậu môn, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân người vào lúc chết bằng đường hậu môn, chỉ ra rằng người đó sắp tái sanh vào cõi địa ngục.
Arya. Một cá nhân đã đạt được nhận biết bất nhị, thiền định phi khái niệm của thực tại tối thượng hoặc tánh không.
Atiyoga. Đồng nghĩa của Đại Viên Mãn (Tạng, rdzogs chen), một hệ thống lý thuyếtthực hành được đi theo chủ yếu bởi luật của Nyingma, Phật giáo Tây Tạng, mục tiêu đạt giải thoát, trực tiếp biết chắc về bản tánh cốt lõi của sự nhận biết.
Địa ngục Avici. A Tỳ. Theo truyền thống sutra, là nơi hành hạ đau đớn nhất của mười tám tầng địa ngục.
Bardo (Phạn, antarabhava). Trạng thái trung gian theo sau cái chết và trước lúc tái sanh kế tiếp của một người. Nói rộng hơn, thuật ngữ bardo có thể ám chỉ bất kỳ sáu tiến trình chuyển tiếp của lúc sống, nằm mộng, nhập định, cận tử, tự thân thực tại và sự trở thành.
Bindu (Tạng, thig le). Dịch tinh túy, hay “giọt”, đi qua kinh mạch trung ương vi tế trong thân người; hình một quả cầu nhỏ, thường được quán tưởng như bản tánh của ánh sáng.
Bodhicitta. Tâm linh Tỉnh thức, hay khát vọng vị tha để đạt được Tinh thần Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh. Trong tantra, bodhicitta trắng và đỏ là hai loại bindu thường định vị trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu và dưới rốn, hội tụ lại ở ngực trong tiến trình cận tử và trong dạngï nhập định sâu.
Bodhisttva. Một cá nhânTâm linh Tỉnh thức dễ dàng khởi lên như động cơ ban đầu của họ, phát sinh lòng từ ái và lòng bi to lớn.
Lỗ mở Brahma. Nơi mở ra trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân vào lúc chết qua con đường của đỉnh đầu, nó ám chỉ rằng người đó sắp được tái sanh vào cõi trời hay Brahma (Phạm Thiên).
Xuyên thấu (Tạng, khregs chod). Giai đoạn đầu tiên của hai giai đoạn chính trong thực hành của Đại Viên Mãn, mục tiêu nhằm đạt được việc duy trì nhận biết trực tiếp của bản tánh cốt tủy của tâm.
Phật tánh. Bản tánh cốt tủy của tâm, theo Đại Viên Mãn là không có gì khác hơn tâm Phật.
Citta. Thuật ngữ tiếng Phạn này thường ám chỉ tâm, nhưng trong giáo lý cao hơn của Đại Viên Mãn, đôi lúc nó chỉ cho ngực.
Thanh tịnh quang. Bản tánh cốt lõi của tâm, đó là không thể nghĩ bàn, tuy nhiên được đặc tính hóa một cách ẩn dụ như bản tánh của tánh không và tánh sáng.
Daka. Đối tác nam của dakini; daka thường biểu hiện như vị bổn tôn bảo vệphục vụ giáo lý đạo Phậthành giả.
Dakini. Người nữ tâm linh tham gia vào các hoạt động giác ngộ cho lợi ích của thế gian.
Damaru. Một loại trống lắc bằng tay dùng trong nghi lễ tantric.
Deva. Chư thiên hay “trời”; thành viên cao nhất của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, họ kinh nghiệm cực lạc, năng lựcnhận biết mạnh mẽ, tất cả điều này sẽ biến mất khi họ chết từ trạng thái hiện hữu đó.
Dharmakaya. Pháp Thân, Tâm của một vị Phật, được nói là vô biên về mặt trí tuệ rộng mở, lòng bi và năng lực.
Nguyên tố của năng lượng sự sống. Năng lượng, hay “gió” chảy khắp cơ thể, có năm loại năng lượng sự sống chính và phụ, mỗi loại có chức năng sinh lý học khác nhau. “Năng lượng duy trì sự sống” được kết hợp đặc biệt mật thiết với chức năng của tâm.
Bốn cực lạc (Tạng, dga’ ba bzhi). Cực lạc, cực lạc cao nhất, cực lạc phi thườngcực lạc bẩm sinh, xuất hiện trong tiến trình thực hành tan tric nâng cao.
Bốn quán đảnh. Cái bình, bí mật, trí tuệ-ngộ đạo, và quán đảnh lời, cho quyền một người tham gia vào thực hành tantric nâng cao.
Bốn vô lượng. Lòng từ ái vô lượng, lòng bi, cảm thông hoan hỷ vô lượng, và bình đẳng, cung cấp nền tảng cho sự trau dồi Tâm linh Tỉnh thức.
Bốn Sự Thật Cao Quý. Tứ diệu đế, Chân lý của đau khổ, nguồn gốc của nó, sự chấm dứt nó và con đường đến chấm dứt đó, cung cấp như toàn bộ cấu trúc của lý thuyếtthực hành của đạo Phật.
Bốn Suy Niệm Làm Chuyển Tâm. Sự thiền định về giá trị và sự hiếm có của cuộc sống làm người với nhàn rỗithuận lợi, về cái chết và vô thường, bản tánh không thỏa mãn của vòng sinh tửluật nhân quả đi đôi với hành động và các hậu quả của nó.
 Năm gia đình Phật. Gia đình các vị Phật: Vajrasattva (Kim Cương Tát Đỏa), Ratnasambhava (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi (Bất Không Thành Tựu), và Vairocana (Tỳ Lô Giá Na), tương ứng với năm kết tập (ngũ uẩn) tâm sinh lý của ý thức, nhận biết, cảm nhận, hình thành tâm thức và thân tướng (sắc, thọ, tưởng, hành và thức) trong khía cạnh thanh tịnh của chúng.
Sự đáp ứngsám hối (Tạng,bskang bshags). Một nghi thức thực hành trong đó hành giả cúng dường đến bổn tôn (đáp ứng), với khẩn cầu được bảo vệ khi hành giả thú nhận các vi phạm (sự sám hối).
Cúng dường Ganachakra. Một nghi lễ cúng dường tantric.
Gandhava. (Càn Thát Bà), Các tiên nữ hay các nhạc công của cõi trời.
Garuda. Kim Xí Điểu, một loại chim thần thoại, hoàn toàn trưởng thành khi mới nở và có năng lực phi thường.
Đại Viên Mãn (Tạng, rDzogs chen). Giáo lý cao nhất của phái Nyingma Phật giáo Tây Tạng, bao gồm ba bộ hướng dẫn được biết như Bộ Tâm, Bộ Mở Rộng và Bộ Hướng dẫn Thiết thực.
Guru yoga. Thực hành thiền định trong đó hành giả tự mình hiến dâng đến vị thầy tâm linh như cùng bản tánh với tất cả chư Phật.
Lắng nghe, suy nghĩthiền định. (Văn, Tư, Tu) Ba giai đoạn thông thường của thực hành đạo Phật, mỗi thứ thành công làm phát sinh một hiểu biếttrí tuệ ở cấp sâu hơn.
Hinayana. Tiểu Thừa, cái “nhỏ hơn” hay “cá nhân”, thừa của lý thuyếtthực hành Phật giáo, chủ yếu nhắm đến mục tiêu cuối cùnggiải thoát chính hành giả khỏi vòng sinh tử.
Kinh mạch kati pha lê rỗng. Kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên định vị trong ngực của tất cả chúng sanh.
Sự không đồng nhất. Không có tự tánh vốn sẵn, hoặc vật chất. Điều này có hai loại, không đồng nhất của cá nhân và không đồng nhất của hiện tượng, ám chỉ việc thiếu bản chất tự-hiện hữu của con người và của hiện tượng khác theo thứ tự định sẵn.
Jnayakaya. Cũng được biết như Svabhavakaya, theo diễn dịch phổ biến của Nyingma là ám chỉ đến tính bất khả phân của Nirmanakaya, Sambhogakaya và Dharmakaya (Hóa Thân, Báo ThânPháp Thân).
Kriya. Theo sự phân loại của Nyingma, là bộ căn bản nhất của ba bộ ngoại tantra, hai bộ kia là Upaya và yoga.
Lama (Phạn, guru). Vị thầy tâm linh hoặc bất cứ vị tổ tâm linh nào được tôn kính.
Giai đoạn Nhảy-vọt (Tạng, thod rgal ba). Thứ hai của hai giai đoạn trong thực hành Đại Viên Mãn, nhắm đến việc sinh ra nhanh chóng sự hiện diện tự phát, đầy đủ của Phật tánh chính hành giả.
Mara. Ma vương hoặc ảnh hưởng ma quỷ tạo chướng ngại cho sự chín muồi tâm linh. Bản tánh thực tế của “những ma quỷ” như vậy là chính tâm thức phiền não của con người, như tham luyến, sân hậnrối loạn, mặc dù chúng cũng có thể xuất hiện ở bên ngoài.
Mahayana. Đại Thừa, cái “to lớn” hay “phổ quát” thừa của lý thuyếtthực hành Phật giáo, hướng đến việc đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
Mandala. 1) Một biểu tượng, biểu tượng đại diện của vị bổn tôn đã chọn với cung điện để trụ và môi trường chung quanh, được quán tưởng bởi hành giả để thăng hoa cảm giác của họ về nhận dạng cá nhânkinh nghiệm của thân, tâm và chung quanh họ. 2) Một biểu hiện, biểu tượng đại diện của thế gian cùng với tất cả sự rộng lớn của một vị vua thế gian, cúng dường đến các đối tượng quy y của hành giả.
Mantradhara (Tạng, sngags ‘chang) nghĩa đen là “người duy trì mantra”, người đã tinh thông khắp các thực hành tantra của đạo Phật.
Núi Meru. Núi Tu Di, ngọn núi thần thoại cao vượt nhất ở trung tâm biểu tượng hóa của thế giới chúng ta, được bao quanh bởi bốn châu lục.
Tự-tâm (Tạng, sems nyid). Nghĩa đen, “sự tỉnh thức,” đây là bản tánh cốt tủy của tâm, đồng nhất với Phật tánh của hành giả.
Dòng-tâm thức (Tạng, rgyud). Tâm thức tương tục của một cá nhân, hiện lên như việc đang xảy ra, luôn thay đổi bất thường suốt quá trình của một kiếp sống và từ kiếp này sang kiếp tới.
Mudra. Thủ ấn, nghĩa đen, “ấn”, đó là biểu tượng tư thế hay chuyển động, thường của hai tay, được thực hành trong thiền định hay nghi lễ thực hành. 2) một phối ngẫu cùng với hành giả thực hành trong giai đoạn nâng cao của thiền định tantric.
Chín yana. Chín “thừa – xe” của thực hành tâm linh, theo sự phân loại của phái Nyingma bao gồm Srvakayana (Thanh Văn Thừa), Pratyekabuddayana (Độc Giác PhậtDuyên Giác Thừa), Bodhisattvayana (Bồ Tát Thừa), Kriya, Upaya, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga.
Nirmanakaya. Hóa Thân, có thể sử dụng hơn của hai Rupakaya (Sắc Thân), hay “Thân Hóa Hiện” của một vị Phật (vị khác của Sambhogakaya), biểu hiện trong mọi cách để dẫn dắt chúng sanh đến giải thoáttâm linh tỉnh thức.
Phi-khách quan. Không xuất hiện như một đối tượng trong phạm vi thói quen, cụ thể hóa cấu trúc chủ thể/đối tượng của tri giác và khái niệm nhận biết; không có tự tánh như một đối tượng.
Paramitayana. Nghĩa đen, “Thừa của sự Hoàn Thiện,” ám chỉ Sáu Hoàn Thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, và trí tuệ, hình thành cấu trúc của bồ tát đạo của cuộc sống và con đường đến Tâm linh Tỉnh thức; giống với Bodhisattvayana.
Parinirvana. Giải thoát cao nhất của một vị Phật, được nói là xảy ra sau khi chết.
Pranayama. Một hệ thống kỹ thuật thiền định để kiểm soát hơi thở như phương tiện điều chỉnh năng lượng sự sống trong thân, lần lượt ảnh hưởng đến trạng thái tâm thức của hành giả.
Pratyekabuddha. Độc Giác Phật, người đạt được giải thoát khỏi vòng sinh tử một mình, không dựa trực tiếp vào một vị thầy.
Preta. Ngạ quỷ, tinh linh của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử, được đặc tính hóa với sự đói, khát và thèm muốn mãnh liệt.
Lỗ mở preta. Lỗ mở trong vùng bộ phận sinh dục, qua đó ý thức của một người xuất ra khỏi cơ thể vào lúc chết nếu người đó sắp nhận tái sanh như một ngạ quỷ.
Rsi. Một vị tổ thành tựu cao trong thực hành thiền định.
Rakta. Dịch tinh chất đỏ nhận được từ người mẹ, thường định vị ở dưới rốn, nhưng lại đi lên khi người ta chết và trong giai đoạn nhập định sâu.
Bodhicitta trắng và đỏ. Hai loại dịch tinh chất, hay “giọt,” thường định vị ở đỉnh đầu và dưới rốn một cách tương ứng, rồi hội tụ tại ngực trong tiến trình cận tử và trong nhập định sâu.
Rupakaya. “Sắc Thân” của một vị Phật, gồm Báo ThânHóa Thân, đối tác với Pháp Thân.
Samadhi. Sự thiền định tập trung đưa đến trình độ khác thường của sự chú ý ổn định và trong sáng.
Samaya. Giới nguyện tantric đã thọ khi tiếp nhận quán đảnh tantric, hình thành nền tảng cho thực hành của Vajrayana.
Sanbhogakaya. Báo Thân, thân vi tế hơn của hai loại Rupakaya, hay “thân hóa hiện” của một vị Phật, xuất hiện chỉ với hành giả cao cấp hơn.
Sangha. Tăng Đoàn, nói rộng ra là cộng đồng các hành giả của Giáo Pháp hay đặc biệt hơn là cộng đồng của các tăng, ni đã thọ cụ túc giới, hoặc cộng đồng của chư bồ tát.
Siddha. Thành tựu giả, một người đã thành tựu một hay nhiều siddhi thông thường hay phi thường.
Siddhi. Một khả năng siêu nhiên, trong đó có một số của thế gian, bao gồm khả năng đi trên nước, bay trong bầu trời v.v... còn cái khác là xuất thế gian là sự thành tựu của Tâm linh Tỉnh thức viên mãn.
Sáu hoàn thiện. Sự hoàn thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền địnhtrí tuệ, cung cấp cấu trúc của bồ tát đạo đến sự tỉnh thức.
Tâm linh Tỉnh thức. Về mặt chân lý tương đối, là khao khát đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng sanh; và về mặt chân lý tuyệt đối là sự nhận biết của bản tánh tối thượng của thực tại.
Sravaka. Nghĩa đen “người nghe,” ám chỉ đệ tử gián tiếp hay trực tiếp của Đức Phật, dấn thân trong thực hành của đạo Phật để đạt giải thoát cá nhân khỏi vòng sinh tử.
Stupa. Tháp, nơi để thánh tích chứa các đồ vật linh thiêng như những gì còn lại của một bậc giác ngộ cao; một nơi để thánh tích như vậy cũng được xem là biểu tượng tiêu biểu cho tâm Đức Phật.
Tantra. Con đường bí mật của Phật giáo, đưa đến việc “nhận kết quả như con đường,” có nghĩa hành giả tưởng tượng hành động theo cách cư xử của thân, khẩu và ý của một vị Phật như một phương tiện để đạt được Tâm linh Tỉnh thức; một luận thư trình bày lý thuyếtthực hành của Vajrayana (Kim Cương Thừa).
Tathagata. Như Lai, một tính ngữ của Đức Phật, nghĩa đen “Đấng Như Lai,” bậc đã giác ngộ chân lý tối thượng.
Terma. Kho tàng của hướng dẫn tâm linh, có hai loại chính: kho tàng đất; được chôn dấu trong đất, và kho tàng tâm được chôn dấu trong tâm thức của vị tổ và được phát hiện vào thời điểm thích hợphiển lộ cho nhân loại.
Thangka. Tranh cuộn Tây Tạng, hường mô tả một hay nhiều bổn tôn hoặc mandala.
Ba hiện thân. Dharmakaya, Sambhogakaya và Nirmanakaya.
Ba độc. Tham luyến, sân hậnrối loạn, là ba phiền não nền tảng của tâm.
Ba yana. Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
Nguồn Giáo Pháp ba-góc. Sự quán tưởng ánh sáng tứ diện ở dưới rốn trong các thiền định tantric nào đó.
Torma. Một nghi lễ cúng dường, thường làm bằng bột lúa mạch nướng trong dạnh hình tròn được dâng cúng trong nghi lễ tantric.
Tulku. Hóa thân của một người trong đời trước hoặc các kiếp trước đã hoàn toàn đạt được sự chín muồi tâm linh cao độ.
Upaya. Bộ giữa của ngoại tantra theo phạm trù hóa của phái Nyingma.
Vajra. Một quyền trượng được sử dụng trong nghi lễ tantric, biểu tượng hóa phương tiện thiện xảo, lòng bi, và cực lạc bất biến.
Vajrayana. Thừa cao nhất của ba yana, hay thừa tâm linh, đã chiếm ưu thế trong Phật giáo Tây Tạng.
Huynh đệ vajra. Nam và nữ cùng nhận quán đảnh tantric, do đó được gồm chung là “gia đình” tantric.
Đấng chiến thắng. Một tên khác của chư Phật, chỉ ra sự chiến thắng mọi loại phiền não và che ám tâm thức.
Vidyadhara. Nghĩa đen “người nắm giữ trí tuệ,” (Trì Minh) ám chỉ vị tổ tantric đã thành tựu cao.
Vinaya. Luật tạng. Kỷ luật đạo đức, đặc biệt cho tăng và ni Phật giáo.
Yaksa. Một bộ bán thiên, hoặc ma quỷ thường ở những nơi đi qua núi và thỉnh thoảng gây hại cho người sống trong vùng của họ nếu họ không được khuyên giải.
Yana. Thừa tâm linh trong Phật giáo, mang hành giả đến bờ bên kia của giải thoátTâm linh Tỉnh thức.




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14309)
Toàn bộ lý do vì sao phải học tập về Giáo Pháp (Dhamma), những lời dạy của Đức Phật, là để tầm cầu một con đường vượt qua khổ não, đạt đến an bìnhhạnh phúc.
(Xem: 14572)
Trong Phật giáo, chúng ta không tin vào một đấng Tạo hóa nhưng chúng ta tin vào lòng tốtgiữ giới không sát hại sinh linh. Chúng ta tin vào luật nghiệp báo nhân quả...
(Xem: 11847)
Ðạo Phật cốt đào luyện tâm hồn người hoàn toàn trong sạch, nên cực lực sa thải những tính: tham lam, sân hận, oán thù... đang trú ẩn trong tâm giới người.
(Xem: 14372)
Với niềm vui lớn lao, vua Tịnh Phạn chúc mừng hoàng hậu và thái tử vừa mới đản sinh. Dân chúng tổ chức các buổi hội hè tưng bừng và treo cờ kết hoa rực rỡ trên toàn quốc.
(Xem: 13284)
Tập sách này gồm có những bài viết đơn giản về Phật Pháp Tại Thế Gian, Cốt Tủy Của Ðạo Phật, Vô Thượng Thậm Thâm Vi Diệu Pháp, những điều cụ thể, thiết thực...
(Xem: 14652)
Tập sách này là kết tập những bài báo viết trên Bản Tin Hải Ấn và Phật Giáo Việt Nam trong cùng một chủ đề. Đó là Con Đường Phát Triển Tâm Linh.
(Xem: 12649)
Chúng tôi viết những bài này với tư cách hành giả, chỉ muốn đọc giả đọc hiểu để ứng dụng tu, chớ không phải học giả dẫn chứng liệu cụ thể cho người đọc dễ bề nghiên cứu.
(Xem: 25274)
Cư sĩ sống trong lòng dân tộc và luôn luôn mang hai trọng trách, trách nhiệm tinh thần đối với Phật Giáo và bổn phận đối với cộng đồng xã hội, với quốc gia dân tộc.
(Xem: 27906)
Chúng tôi viết quyển sách này cho những người mới bắt đầu học Phật. Bước đầu tuy tầm thường song không kém phần quan trọng, nếu bước đầu đi sai, những bước sau khó mà đúng được.
(Xem: 26383)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 17246)
Đôi khi mọi người nghĩ cái chết là sự trừng phạt những việc xấu xa mà họ đã làm, hoặc là sự thất bại, sai lầm, nhưng cái chết không phải như vậy. Cái chết là phần tự nhiên của cuộc sống.
(Xem: 16531)
Sách này nói về sự liên quan chặt chẽ giữa con người và trái đất, cả hai đồng sinh cộng tử. Con người không thể sống riêng lẻ một mình nếu các loài khác bị tiêu diệt.
(Xem: 15925)
Cuốn sách “Tin Tức Từ Biển Tâm” của nhà văn Phật giáo Đài Loan – Lâm Thanh Huyền – quả là một cú “sốc” tuyệt vời đối với các nhà Phật học Việt Nam.
(Xem: 22159)
Người cư sĩ tại gia, ngoài trách nhiệm và bổn phận đối với gia đình, xã hội còn có nhiệm vụ hộ trì Tam Bảo. Cho nên trọng trách của người Phật Tử tại gia rất là quan trọng...
(Xem: 17142)
Mỗi sáng lúc mới thức dậy, trong trạng thái mơ màng chưa tỉnh hẳn, chúng ta phải bắt đầu lôi kéo tâm thức vào một đường hướng rõ ràng: tự đánh thức lên lòng ngưỡng mộ cao rộng đến buổi rạng đông...
(Xem: 24946)
Làm sao tôi có thể hành thiền khi quá bận rộn với công việc và gia đình? Làm sao tôi có thể phối hợp hoạt động với ngồi yên một chỗ? Có các nữ tu sĩ không?
(Xem: 22002)
An Lạc phải bắt đầu từ nơi mỗi chúng ta mà từ, bi, hỉ, xả là nền tảng. Có từ, bi, hỉ, xả, thì đi đâu ta cũng gieo rắc tình thương và sự hòa hợp...
(Xem: 19085)
Tập sách này không phải là một tiểu luận về tâm lý học nên không thể bao quát hết mọi vấn đề nhân sinh, mục đích của nó nói lên sự tương quan của Ý, Tình, Thân và tiến trình phiền não...
(Xem: 16178)
Đức Phật tuy đã nhập diệt trên 25 thế kỷ rồi, nhưng Phật pháp vẫn còn truyền lại thế gian, chân lý sống ấy vẫn còn sáng ngời đến tận ngày hôm nay. Đây là những phương thuốc trị lành tâm bệnh cho chúng sanh...
(Xem: 21733)
Những gì chúng ta học được từ người xưa và cả người nay dĩ nhiên không phải trên những danh xưng, tiếng tăm hay bài giảng thơ văn để lại cho đời, mà chính ngay nơi những bước chân của người...
(Xem: 16796)
Đối với Phật giáo, tính cách quy ước của tâm thức biểu lộ từ một sự sáng ngời trong trẻo. Những khuyết điểm làm ô uế nó không nội tại nơi bản chất của nó mà chỉ là ngoại sanh.
(Xem: 14675)
Đọc “Trung bộ kinh” chúng ta có được một đường lối tu hành cụ thể như một bản đồ chỉ rõ chi tiết, đưa ta đến thành Niết bàn, cứu cánh của phạm hạnh.
(Xem: 16718)
J. Krishnamurti, cuộc sống và những lời giáo huấn của ông trải dài trong phần lớn thế kỷ hai mươi, được nhiều người tôn vinh là một con ngườiảnh hưởng sâu sắc nhất vào ý thức của nhân loại...
(Xem: 25035)
“Cái tiến trình” là một hiện tượng thuộc cơ thể, không nên lầm lẫn với trạng thái tinh thần mà Krishnamurti viết trong quyển này bằng nhiều từ khác biệt như là “phước lành”, “cái khác lạ”...
(Xem: 18791)
Quyển sách này là kết quả của những cuộc nói chuyện và những cuộc thảo luận được tổ chức ở Ấn độ bởi J. Krishnamurti với học sinh và giáo viên của những trường học tại Rishi Valley...
(Xem: 21200)
Gốc rễ của xung đột, không chỉ phía bên ngoài, nhưng còn cả xung đột phía bên trong khủng khiếp này của con người là gì? Gốc rễ của nó là gì?
(Xem: 14783)
Với hầu hết mọi người chúng ta, sự liên hệ với một người khác được đặt nền tảng trên sự lệ thuộc, hoặc là kinh tế hoặc là tâm lý. Lệ thuộc này tạo ra sợ hãi...
(Xem: 14380)
Bàn về Cách kiếm sống đúng đắn tìm hiểu những phương cách cho chúng ta tham gia, nhưng không đắm chìm, công việc của chúng ta. Trong một thế giới điên cuồng để sản xuất...
(Xem: 16625)
Phật Giáo dạy nhân loại đi vào con đường Trung Đạo, con đường của sự điều độ, của sự hiểu biết đứng đắn hơn và làm thế nào để có một cuộc sống dồi dào bình anhạnh phúc.
(Xem: 18018)
Đọc Tu Bụi của tác giả Trần Kiêm Đoàn, tôi có cảm tưởng như nhìn thấy một mảnh bóng dáng của chính mình qua nhân vật chính là Trí Hải. Đời Trí Hải có nhiều biến cố.
(Xem: 12938)
Suy nghĩ không bao giờ mới mẻ, nhưng sự liên hệ luôn luôn mới mẻ; và suy nghĩ tiếp cận sự kiện sinh động, thực sự, mới mẻ này, bằng nền quá khứ của cái cũ kỹ.
(Xem: 14952)
Hầu hết mọi người sẽ vui mừng để có một sự an bình nào đấy của tâm hồn trong đời sống của họ. Họ sẽ hân hoan để quên đi những rắc rối, những vấn đề...
(Xem: 12731)
Sau thời công phu khuya, tôi được phân công quét chùa. Tay cầm chiếc chổi chà, tôi nhẹ bước ra sân và leo lên cầu thang phía Ðông lang chính điện.
(Xem: 13896)
Điều làm cho một người trở thành một Phật tử chân chính là người ấy tìm nơi nương tựaĐức Phật, Giáo pháp, và chư Thánh Tăng - gọi là Quy Y Tam Bảo.
(Xem: 14619)
Sống cùng với xã hộicần phải đi đến việc cùng chung có một tinh thần trách nhiệm cộng đồng. Còn kiến thức thì giúp chúng ta khám phá thiên nhiên đồng thời với nội tâm của chúng ta.
(Xem: 28053)
Đây là một quyển sách căn bản dành cho người muốn tìm hạnh phúc và sự bình an trong cuộc sống qua con đường tâm linh. Con đường Đạo của Đức Phật rất đơn giản, thích hợp với mọi người.
(Xem: 27226)
Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh. Đó là chủ tâm của tác giả...
(Xem: 14355)
”Vượt Khỏi Giáo điều” không phải chỉ đề cập đến những vấn nạn đời thường, nó còn tiến xa hơn một bước nữa là vạch ra cho con người một hướng đi, một hành trình tu tập tâm linh hầu có thể đạt đến cứu cánh giác ngộ giải thoát ngay trong kiếp sống này.
(Xem: 20993)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 14675)
Duy tâm của Phật giáo không công nhận có cảnh nào là cảnh thật, hết thảy các cảnh đều do tâm hiện, lá chuối cũng tâm hiện, bóng người cũng tâm hiện, như hoa đốm giữa hư không.
(Xem: 24206)
Để hỗ trợ cho việc phát triển và thực thi tâm hạnh từ bi, việc chủ yếu là phải vượt qua những chướng ngại. Nơi đó, hạnh nhẫn nhục đóng vai trò quan trọng...
(Xem: 28712)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 14744)
Cuốn sách nhỏ này không phải đã được viết ra để phô bày kiến thức của tác giảkiến thức ấy không có gì đáng để được phô bày. Nó mong ước được là một người bạn hơn là một cuốn sách.
(Xem: 13305)
“Không có tẩu thoát khỏi sự liên hệ. Trong sự liên hệ đó, mà là cái gương trong đó chúng ta có thể thấy chính chúng ta, chúng ta có thể khám phá chúng ta là gì...
(Xem: 16468)
Quyển sách này đã đem lại cho độc giả một cái nhìn mới của Tây phương đối với Phật giáo trước đây vốn hoàn toàn xa lạ và hiện nay đang rất thịnh hành ở châu Âu và châu Mỹ.
(Xem: 27263)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 12022)
Trí Phật là trí kim cương. Thân Phật là thân kim sắc, cõi Phật là cõi hoàng kim, thì Đạo Phật tất nhiên là Đạo Vàng. Ánh Đạo Vàngkim quang của đức Từ bi rộng lớn phá màn vô minh, chỉ rõ đường chánh.
(Xem: 16081)
Milarepa là một trong những đạo sư tâm linh nổi tiếng nhất của mọi thời. Ngài không những là một nhà lãnh đạo kiệt xuất của dòng phái Kagyu, mà cũng là một đạo sư rất quan trọng đối với mọi trường phái của Phật giáo Tây Tạng.
(Xem: 21519)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 12385)
Cuốn sách nhỏ này do Hòa Thượng Tiến Sĩ K. Sri Dhammananda là một cuốn sách có giá trị, đáp ứng được những câu hỏi như chết đi về đâu và chết rồi đã hết khổ chưa...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant