Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Tám trai giới

10 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 5916)
08. Tám trai giới


THỨC BIẾN
Hòa thượng Thích Thiện Siêu
Nhà Xuất Bản TP. HCM, 2003

TÁM TRAI GIỚI

(Bát quan trai giới)

1. Chủ ý Phật chế "Tám Trai Giới"

Lòng từ bi của Phật dạy khắp Phật tử cả không gian vô biên, thời gian vô tận. Ngài muốn hết thảy chúng sinh đều được như Ngài, không còn vô minhgiác ngộ, giải thoát hỏi nhà lửa Tam giới, để bước sang giới thanh tịnh an vui. Chỉ vì căn cơ trí thức tánh dụng của chúng sinh không đồng mà Phật phải tùy cơ để giáo hóa. Lòng từ bi của Phật tuy khắp tuy đồng, như ánh trăng chiếu diệu cả muôn phương, nhưng pháp môn dẫn đạo lại chia ra muôn ngàn sai khác. Biết rằng khác mà cố gắng thực hành thì cũng đi đến chỗ đồng là đồng được giải thoát.

Phật tử chúng ta khi đối trước Tam Bảo phát nguyện quy y, là trong tâm chí mình đã nảy ra một niệm hương thượng, vươn mình ra ngoài bể khổ, phát tâm hướng đến con đường giải thoát, rời bỏ trần lao, đến cảnh thanh tịnh, lìa địa vị phàm phu bước đến địa vị Chánh giác, xa đời sống ích kỹ hẹp hòi tà vạy, tập một đời sống vị tha rộng rãi chánh đáng. Do vạy, trong đời sống mới, theo con đường chư Phật chỉ dạy, phải tuân hành theo những quy luật của Phật thiết chế. Những quy luật ấy tức gọi là Giới mà hàng tại gia cũng như hàng xuất gia, ai nấy đều phải thọ trì, không để trái phạm.

Sau thời kỳ Chánh pháptượng pháp, đến thời kỳ mạt pháp cách đạo càng xa, lòng người nguời thấp kém, một phần là vì giới luật của hàng Phật tử không được truyền thọ phân minh, một phần nữa vì đại đa số nghe nói giới luật Phật chế thì sợ hãi, xem đó như một cái gì khắc khổ đối với người ta, là cho người ta mất hết cả tự do, đi đến chỗ hèn yếu. Biết đâu rằng lời thẳng thường khó nghe, thuốc hay thường khó uống, nên ta không thể vì lẽ trái với thị dục phiền não mà không giữ, hoặc sợ hãi, khinh lờn. Huống chi Phật là vị như pháp ngữ, soi thấy căn bịnh chúng sinhphân chia giới thành nhiều tạng, nào là Ưu-bà-tắc giới,Ưu-bà-di giới, Sa-di giới, Sa-di-ni giới, Tỷ-kheo giới, Tỷ-kheo-ni giới, Bồ-tát giới, mỗi người đều tùy trường hợp của mình mà lãnh thọ. Tựu trung, Phật còn muốn hàng tại gia có thể xuất gia trong từng thời gian ngắn để gieo nhân xuất thế về sau, nên chế định cho kẻ tại gia phép "Bát quan trai giới". Tuy thọ trong từng thời gian ngắn mà công đức vô lượng vô biên.

2. Bát quan trai giới

Bát quan nghĩa là tám cửa. Ý nói rằng tạo tác tám điều: sát, đạo, dâm, vọng... là mở cửa rộng lớn, chúng sinh từ đó mà đi vào đường tội lỗi, bị sống chết trong nẻo luân hồi ác đạo; nếu muốn giải thoát thì phải đóng tám cửa ấy lại, nghĩa là phải diệt trừ tám điều: sát, đạo, dâm, vọng v.v. ấy đi. Diệt được tám ác pháp này là đóng kín tám cửa, không để đi đến cảnh giới địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, đồng thời cũng tức là mở tám nẻo đường đi lên địa vị Thánh giả.

Trai nghĩa là đúng thời. Trong ba thứ ăn, mặc, ở, người thế gian thường chú trọng bao nhiêu thì trái lại kẻ tu hành càng biết kiềm chế bấy nhiêu, miễn sao vừa đủ để giúp đỡ đường tu, phải lành xa sự đắm say luyến tiếc, nhất là sự ăn. Trong luật thường chia hai lối: ăn phải thời và ăn trái thời. Từ sớm đến trưa mà ăn là phải thời, từ trưa về tối mà ăn là trái thời. Kẻ tu hành cần y lời Phật chế, không ăn trái thời nên gọi là trai.

Giới là đều răn, điều cấm để hướng thân tâm theo con đường chánh, con đường giải thoátlánh xa tội ác.

Tám trai giới là:

1. Xa lìa sự sát sinh
2. Xa lìa sự trộm cắp
3. Xa lìa sự dâm dục
4. Xa lìa sự nói dối
5. Xa lìa sự uống rượu.
6. Xa lìa sự trang sức, hát múa và xem nghe hát múa
7. Xa lìa sự nằm ngồi những chỗ cao tốt.
8. Xa lìa sự ăn trái thời.

Tám điều này là cả trai và giới gồm lại. Bảy điều trước là giới, điều thức tám là trai. Ấy là "Tám trai giới" Phật chế cho kẻ tại gia được tập xuất gia trong những thời gian ngắn vậy.

3. Phép thọ "Bát quan trai giới"

Trong kinh Thiện Sinh, kinh Tăng Nhất A-hàm, đức Phật dạy: "Các vị Ưu-bà-tắc, Ưu-bà-di trong những ngày mồng 8, ngày 14, ngày 15 nên đến trước các vị xuất gia Đại đức cầu thọ tám trai giới, chớ để thất thời". Lại có chỗ đức Phật thêm rằng "truyền thọ phép Bát quan trai sáu ngày trong mỗi tháng là mồng 8, 14, 15, 23, 29, 30" (tức là lục trai mỗi tháng). Xuống đến ngày nay, luật pháp không minh, hành trì kém sút, nên đã từ chỗ tu trì nhất định đi đến chỗ phát nguyện tùy tâm. Dù sao, có còn hơn không. Bởi còn có phát nguyện, còn có tu trì, thì thế nào cũng đến đạo quả giải thoát.

Nếu luận về ngày thì có hai cách:

a) Phép Bát quan trai thọ trì chánh trong một ngày đêm (vào những ngày mồng 8, 14, 23 và 5, 18)

b) Phép Bát quan trai thọ trì phụ thêm ngày rước đưa (vào những ngày mồng 1, 4, 5, 6, 7, 9, 13, 16, 17, 19, 22, 24, 28).

Ngày rước ngày đưa nghĩa là hai ngày đêm trước và sau một ngày đêm chánh thọ. Bởi người tại gia thường bị bao vây trong thế duyên ràng buộc, không thể một phút một giờ có thể bỏ hẳn được, nếu không sắp đặt dứt bỏ trước để dự bị thanh tịnh trong một ngày đêm chánh thọ thì không có lợi ích lớn. Vậy nên muốn cầu thọ "Bát quan trai giới" thì trước một ngày đêm của ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm thọ trì dự bị chánh giới ấy và sau một ngày đêm chánh thọ, phải một ngày đêm nữa để hoàn thành giới ấy.

Trong hai cách thọ giới "Bát quan trai" trên, cách thọ trì chánh phải tìm đến thọ nơi các vị xuất gia, còn cách thọ trì phụ thì không, chỉ tự phát nguyện cũng đủ. Trong cách thọ trì chánh, có thể ở nhà mà vẫn hành trì được, nhưng phải đến thọ với người xuất gia trước đã. Nếu gặp hoàn cảnh minh tướng (bình minh vừa tỏ) xuất hiện mà liệu chưa đi đến người xuất gia được thì phải đối trước tượng Phật phát nguyện thọ giới, rồi vẫn phải tìm đến người xuất gia mà thọ mới đắc giới. Khi đến thọ với người xuất gia dù muộn cũng cần bằng thọ khi minh tướng xuất hiện vì mình đã phát nguyện.

Nói tóm, thọ trì giới "Bát quan trai" phải 20 ngày mỗi tháng kể cả chánh thọ và phụ thọ. Nhưng ngày nay hoàn cảnh người tại gia khó bề thực hành được như thế. Vậy nên phương tiện có thể hành pháp như thế này:

a) Phải thọ mỗi tháng 3 ngày chánh như Phật chế là mồng 8, 14 và 15. Hoặc một trong những ngày ấy.

b) Phải tìm đến các vị xuất gia (Sa-di, Tỷ kheo) truyền cầu thọ giới cho. Ngoại trừ trường hợp không có các vị xuất gia hoặc có mà không cách gì tìm đến được, thì tự phát nguyện trước tượng Phậtthọ lãnh giới, nghĩa là như cách "thọ trì phụ" mà thôi.

c) Trước khi thọ, phải một ngày đêm dự bị sắp đặt tất cả chướng duyên để đến một ngày đêm "thọ trì chánh" được thanh tịnh.

4. Nghi thức thọ "Bát quan trai giới"

Người thọ giới "Bát quan trai" y phục phải chỉnh tề, nghe gọi là đứng vào giữa bàn thờ Phật, theo tiếng chuông đảnh lễ ba lạy. Xong quỳ xuống, chấp tay nghe Thầy truyền giới dạy:

- Bể khổ vô biên, nếu không nương thuyền Bát nhã không thể lên bờ Giác, luân hồi nhiều nẻo, chẳng thọ trì tịnh giới thì không thể được giải thoát. Chư Phật do tịnh gới mà thành Chánh giác. Đại thừa, Tiểu thừa, đồng thọ tịnh giới, thế gian hay xuất thế đều giữ tịnh giới. Nhưng tại gia Phật tửtrần lụy bao vây, không thể quyết chí chung thân thọ trì. Bởi thế, Như lai từ bi, phương tiện dạy mỗi một ngày đêm, thọ trì tám thứ trai giới này. Tám trai giới này công đức siếu phàm nhập thánh vượt qua ba cõi, thẳng đến Giác ngộ.

Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật)

Các người, từ vô thỉ đến nay, tạo các ác nghiệp vô lượng vô biên, nay phải chí thành, tha thiết sám hối, để cho thân tâm thanh tịnh tinh khiết, rồi mới thọ trì tám thứ trai giới. Vậy các người hãy đọc theo lời tôi: (Người thọ giới đứng dậy, chấp tay đọc theo).

- Đệ tử... (nói tên họ, hoặc pháp danh) từ vô thỉ đến ngày nay, gây ra tội ác, như ba nghiệp, mười ác, tà kiến v.v. nay hướng lên Tam Bảo trong khắp mười phương, cần cầu sám hối, nguyện đều trừ diệt.

(Đọc ba phen như thế. Xong, Thầy truyền giới xướng:)

Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trứ Tam Bảo (xướng ba lần, mỗi lần người thọ giới lạy một lạy. Xong, quỳ xuống, chấp tay đọc ba phen theo Thầy:)

Đệ tử vốn tạo các vọng nghiệp,
Đều do vô thỉ tham sân si,
Tử thân miệng ý phát sinh ra,
Đệ tử thảy đều xin sám hối.

(Ngưòi thọ giới đứng dậy, đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, chấp tay, nghe Thầy dạy).

- Phật tử! (Người thọ giới nói: Mô Phật). Đã chí thành sám hối ba nghiệp thanh tịnh rồi, vậy từ giờ này cho đến sáng mai hãy chí tâm tu tập tám thứ trai giới của Phật chế. Tám thứ trai giới là những gì?

Một là không được sát sinh
Hai là không được trộm cướp
Ba là không được dâm dục
Bốn là không được vọng ngữ
Năm là không uống rượu
Sáu là không trang sức hương hoa cùng phục sức đẹp, không được múa hát hay cố ý xem nghe múa hát.
Bảy là không được nằm ngồi giườong ghế cao rộng
Tám là không được ăn trái thời.

Tám thứ này, bảy giới trước gọi là giới, nghĩa là đóng bít cửa ngõ ác đạo; giới thứ tám gọi là trai, nghĩa là giống như Như lai, bứoc theo đường lối trung đạo, ăn đúng vào lúc mặt trời vừa đứng bóng. Gồm cả tám thứ giới trai, gọi là tám quan trai giới. Các người nên phát tâm vô thượng, thọ giới vô thượng ấy. Vậy các người hãy nói theo lời tôi chỉ dẫn.

(Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới)

- Đệ tử (Người thọ giới xưng tên và pháp danh) qui y Phật, qui y Pháp, qui y Tăng. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến GiácThế Tôn của con (Nói ba lần như thế rồi nghe Thầy dạy).

- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đã thọ ba pháp qui y, các người hãy nói theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo Thầy truyền giới):

- Đệ tử! (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) qui y Phật cảnh, qui y Pháp cảnh, qui y Tăng cảnh. Nguyện một ngày đêm sống theo tinh hạnh Ưu-bà-tắc (hoặc Ưu-bà-di nếu là đàn bà). Đức Như lai Chí Chân Chánh Biến GiácThế Tôn của con.

(Nói ba lần như thế, rồi đứng dậy đảnh lễ ba dạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy)

- Đệ tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Tôi đã thọ cho các người ba pháp qui y, ba pháp cứu cánh, thế là giới thể đã viên mãn rồi. Nay tôi lại nói rõ giới tướng để các người lạnh thọ giữ gìn, không được hủy phạm. Vậy các người hãy nói theo lời tôi (Người thọ giới nói theo lời thầy truyền giới).

Như Phật Thế Tôn suốt đời không sát sinh, đệ tử... (Người thọ giới tự xưng tên họ, hoặc pháp danh) thề một ngày đêm xa lìa sự sát sinh

Như Phật Thế Tôn suốt đời không trộm cướp, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự trộm cướp.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không dâm dục, đệ tử.. thề một ngày đêm xa lìa sự dâm dục.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không vọng ngữ, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự vọng ngữ.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không uống rượu, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự uống rượu.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không trang sức, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự trang sức

Như Phật Thế Tôn suốt đời không múa hát và xem nghe múa hát, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự múa hát và xem nghe múa hát.

Như Phật Thế Tôn suốt đời không ăn trái thời, đệ tử... thề một ngày đêm xa lìa sự ăn trái thời

(Người thọ giới đứng dậy, đãnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống, nghe Thầy dạy phát nguyện)

Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người đã thọ tám trai giới phải phát thệ nguyện. Hết thảy việc thế gian, cho đến việc xuất thế, nếu không phát nguyện, không việc gì thành tựu. Vậy các người hãy chí thành phát nguyện theo lời tôi chỉ dẫn (Người thọ giới nói theo).

- Đệ tử... (Người thọ giới xưng tên họ và pháp danh) chí tâm phát nguyện, nguyện do công đức thọ giới "Bát quan trai", giải thoát ba đường, xa lìa tám nạn, nguyện đem công đức ấy, hồi hướng cho hết thảy hữu tình, hoặc thấy, hoặc nghe đồng sinh Tịnh độ, đồng thấy Như lai, đồng chứng pháp nhẫn đồng chuyển chúng sinh, đồng thành Phật đạo.

(Phát nguyện xong, người thọ giới đứng dậy đảnh lễ ba lạy, rồi quỳ xuống nghe Thầy dạy)

- Phật tử! (Người thọ giới: Mô Phật). Các người, nếu đã thọ tám trai giới rồi, phải giữ từng như giữ tròng mắt, trong một ngày đêm đừng có hủy phạm. Trong tám trai giới ấy, nếu phạm một giới thì thành người bất tịnh. Tám trai giới nàylà giới rất vi diệu, làm cho nguời tại gia được xuất gia, vậy các ngươi trong suốt một ngày đêm này, phải nhiếp tâm lại, chánh tâm giữ gìn như giữ bờ đê, không cho nước chảy, các người nhờ phước thiện đời trước, ngày nay được sinh làm người, được gặp Phật pháp, đựoc thọ tịnh giới, làm căn bản cho Giải thoát, vậy phải trân trọng, đừng nên tự khinh (Người giới đáp lại: Con xin y giáp thực hành). (Xong, đứng dậy đảnh lễ theo lời xướng sau đây, mỗi hiệu một lạy).

Nhất tâm đảnh lễ Thập Phương Thường Trú Tam Bảo

Nhất tâm đảnh lễ Bổn Sư Thích-ca Mâu-ni Thế tôn

Nhất tâm đảnh lễ Truyền Giới Bổn Sư

Nghi thức truyền "Bát quan trai giới" đến đây là xong. Nếu còn thì giờ thì sau khi đảnh lễ, nên niệm Phật, còn không có thì giờ thì thôi.

5. Ích lợi giới "Bát quan trai"

Điểm này muốn rõ ràngvắn tắt, tôi trích dịch lời Phật dạy về "Bát quan trai giới" trong kinh Ưu-bà-tắc Giới để mọi người cùng rõ:

"Thiện nam tử! Nếu ai tìm người xuất gia lãnh thọ ba qui y, tám trai giới (bằng cách nói ba lần) trong một ngày đêm thì người ấy được hoàn thành trai giới Ưu-bà-tắc trong một ngày đêm".

Qua hôm sau, khi minh tướng (mặt trời mọc vào lúc sáng sớm) xuất hiện thì giới ấy hết. Giới ấy không được tự thọ trước tượng Phật, cần phải thọ với người xuất gia. Thọ rồi căn bản thanh tịnh, cứu cánh thanh tịnh, trang nhiệm thanh tịnh, giác quán thanh tịnh, thế gọi là pháp "Ba quy y, tám trai giới thanh tịnh". Thiện nam tử! Thanh tịnh thọ trì Ba qui y, Tám trai giới như vậy thì trừ diệt đước năm nghịch tội, tất cả tội lỗi khác cũng đểu tiêu diệt. Tám trai giới không được hai người cùng nói thọ một lần... Năng lực của tám trai giới này có thể làm cho các đời sau sinh ra không bao giờ làm ác... Những ai có trách nhiệm... muốn tổ chức thọ "Ba qui y và tám trai giới" này, trước hết phải yêu cầukhuyến thỉnh địa hạt thuộc phạm vi của mình... trong ngày đêm sắp thọ giới "Bát quan trai" nên đình chỉ tất cả các điều ác, các hình phạt. Nếu thanh tịnh thọ trì tám trai giới như vậy, thì người ấy sẽ được rất nhiều đều an lạc, cho đến được phước lạc tối thượng".

"Đức Di-lặc ra đời, người ta sẽ thọ trì tám trai giới mỗi lần một trăm năm. Không như bây giờ một ngày đêm, vì chúng sinh bây giờ đủ cả năm thức ô trọc. Thế nên đức Phật nói với bà Lộc-mẫu rằng: "Thiện nữ! Cho đến loài vô giác như cây sa-la mà nếu thọ trì tám trai giới, cũng sẽ được vô lượng an lạc trong loài Người loài Trời, cho đến sẽ được sự an lạc vô thượng. Thiện nam tử! Tám giới này là chuỗi anh lạc trang sức trí-giác-vô-thượng vậy. Giới như vậy dễ thực hành mà kết quả vô lượng. Nếu dễ thực hành mà không thực hành thì ấy là kẻ phóng dật".

6. Những điều cần ghi nhớ

* Sự sinh sống: Trong các nghề sinh sống đặc biệt là nghề buôn bán, Phật tử tại gia muốn sự sinh sống chân chánh thì trong nghề buôn bán không nên:

1. Buôn bán khí giới.
2. Buôn bán người.
3. Buôn bán thú.
4. Buôn bán rượu.
5. Buôn ván thuốc độc.

Không những tự mình không nên mà không được khuyên hay tán đồng người buôn bán năm nghề ấy.

* Những điều hại: Đây là năm điều phá hoại giới đức và sự sống chân chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải tránh:

1. Không tin tưởng công đức Tam Bảo.
2. Phá giới đã thọ.
3. Không quyết định.
4. Chấp kẻ có tà thuật ban cho ta sự tội phước.
5. Tìm phước nơi người ngoại đạo.

Ai phạm một trong năm điều ấy thì không còn là người Phật tử chân chánh nữa, gọi là người đáng cho các bậc thiện trí thức bỏ rơi, xa lìa.

* Những điều lợi: Trái lại, năm điều sau đây lợi ích cho giới đức và sự sống chơn chánh của người tại gia, người tại gia tuyệt đối phải giữ:

1. Tin chắc nơi ân đức Tam Bảo.
2. Giữ giới đã thọ.
3. Tâm quyết định.
4. Tin lý nhân quả, không tin tà thuật ngoại đạo.
5. Không xu hướng theo ngoại đạo, chỉ tìm phước nơi người tu theo Phật pháp.

Những người Phật tử tại gia giữ đúng năm điều này, thì tức là người Phật tử cao thượng, ví như hoa sen không vấy bùn nhơ mà hương sắc kỳ diệu.

* Những điều tiến bộ đạo đức: Đây là mười đều tăng thêm, phát triển đức nghiệp cho người Phật tử tại gia. Người tại gia phải chí tâm thọ trì:

1. Qui y Tăng rồi thì, Tăng vui mình vui, Tăng khổ mình khổ.
2. Thân và khẩu thanh tịnh.
3. Lấy đạo làm gốc, nghĩa là mỗi khi làm một công việc gì phải noi theo đạo lý làm điều tối trọng hơn hết, không bao giờ quên.
4. Ưa thích bố thí tùy sức mình, nghĩa là có ít cho ít, có nhiều cho nhiều, không để lòng bỏn xẻn làm chủ.
5. Siêng năng trong việc học hỏi cho thấu rõ lý đạo của Phật đã truyền dạy.
6. Có chánh kiến, nghĩa là có trí tuệ thấy biết điều phải lẽ thật.
7. Tránh xa những người không có ý quyết định. Không tin kẻ tà thuật cho mình hoạ phúc. Chỉ tin lý nhân quả. Làm lành được vui, làm ác phải khổ.
8. Không quên Tam Bảo: Dù gặp hoạn nạn đến nỗi nguy hại đến tánh mạng mình cũng không bỏ đạo, không bỏ lòng tin Tam Bảo mà nghe theo kẻ khác, tôn kín họ làm thầy, hoặc bảo họ là hơn Tam Bảo.
9. Muôn sự đồng ý cùng nhau.
10. Tu hành chín chắn theo Phật pháp.

Những người tại gia Phật tử hết lòng sống theo mười đều ấy thì làm cho sự tu hành của mình mau được kết quả, cũng là hạt giống Niết-bàn được gieo trồng vậy. Tất cả những điều cần thiết trên đây là trích ở trong Luật, nhất là Luật Nam tông (Pali). Những đều này cốt dạy cho người thọ trì Tam quiNgũ giới. Nói cách khác, người qui y rồi là phải giữ đúng những điều cần ấy. Nay trích ra đây để các vị thọ giới Bát quan trai biết mà giữ, bởi lẽ thọ năm giới còn phải giữ huống chi thọ trì Tám giới dự tập xuất gia trong thời gian ngắn!

Đạo có khó mới gọi là đạo. Đạo có khó làm mới có hiệu quả lớn. Dù ở từng bực nào trong đạo, Phật tử chúng ta cũng phải cố gắng làm đúng theo đạo mới mong giải thoát, như mục đích chúng ta đi đến với đạo.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 26260)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21671)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23457)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 14756)
Hiện đại hoá đạo Phật không có nghĩa là thế tục hóa đạo Phật. Đạo Phật đi vào cuộc đời nhưng không bị cuộc đời làm giảm mất đi những đặc tính siêu việt của nó.
(Xem: 12971)
Có thể nói Đức Đạt Lai Lạt Ma là nhà hoằng pháp vĩ đại nhất của PG trong thời hiện đại, và được xem là người có nhiều tác phẩm Phật học được người Tây Phương tiếp nhận và tìm đọc nhất.
(Xem: 19871)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 13831)
Tôi có nhân duyên với Đạo Phật từ khá sớm, hồi còn học trung học vào đầu thập niên 40. Thế Giới ấy đối với tôi là niềm vui thíchtin tưởng càng ngày càng lớn.
(Xem: 22786)
Ðạo Phật dạy rằng tâm là nhân duyên chính khiến ta bị luân hồi. Nhưng cũng chính tâm lại là cái duyên lớn nhất giúp ta thoát vòng sanh tử.
(Xem: 12001)
Chúng ta an vị Phật là rước Phật trong lòng chúng ta đem thờ tại chùa, để khi nhìn thấy Phật tại chùa mà nhớ Phật trong lòng của chúng ta...
(Xem: 12437)
Con đường đưa đến tuệ giác thì sao? Tu thiền định sẽ đoạn diệt vô minh. Cố gắng hiểu biết ba đặc tính của vạn pháp. Không có cái ngã nào biệt lập.
(Xem: 24105)
Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên...
(Xem: 13744)
Rõ ràng, đối với đạo Phật, tâm là cơ sở, là đối tượng, đồng thời cũng là công cụ của việc thực nghiệm đời sống tâm linh. Tâm là gốc của sinh và tử...
(Xem: 21099)
Đức Đạt-lai Lạt-ma thứ 14, Tenzin Gyatso, có thể nói là một trong những tên tuổi lớn trên thế giớigần đây luôn được rất nhiều người tôn kính.
(Xem: 25706)
Với sự hỗ trợ của Phật pháp và sự thực hành chánh niệm, điều thay đổi lớn nhất mà tôi đã làm được cho bản thân, tôi nghĩ, đó là giờ tôi có thể dễ dàng tha thứ cho người...
(Xem: 19264)
Bây giờ, tâm thức tồn tại bằng sự tùy thuộc trên nguyên nhânđiều kiện (nhân duyên). Tâm thức hôm nay hiện hữu do bởi tâm thức hôm qua.
(Xem: 23265)
Tenzin Palmo đã kể lại cuộc sống ẩn cư của cô cho Vickie Mackenzie với tất cả lòng nhiệt thành cởi mở. Cô nói về những trở ngại, gian nan cô đã vượt qua, những thôi thúc thử thách mãnh liệt...
(Xem: 21411)
Đức Phật Thích Ca được tôn kính như bậc Thầy vĩ đại, một Thiện hữu, một vị Gương mẫu Toàn giác. Pháp hay giáo lý của Ngài chứa đựng những nguyên tắc căn bản, bất biến của Công bằngChân lý.
(Xem: 18344)
Nhờ Phật giáo, tôi biết tu tập để phát động lòng từ bi và đem lại hơi ấm cho tim tôi, sự tu tập ấy tỏ ra khá hữu ích cho tôi trong cuộc sống thường nhật.
(Xem: 14013)
Cách tốt nhất để đem đến ý nghĩa cho cuộc đời bạn là khiến nó có lợi cho những người khác, bằng lòng bi mẫn của bạn với họ. Đó cũng là cách tốt nhất để tìm thấy bình an, hạnh phúc...
(Xem: 15481)
Phật giáo và các khoa học vật chất có giao diện to lớn với nhau trên nhiều mức độ triết lý, thăm dò bản chất về nguồn gốc của vũ trụ, và bản chất tối hậu của vật chất.
(Xem: 17898)
Từ xưa đến nay, Đạo Phật luôn khẳng định rằng “số mạng là do mỗi người tự tạo, phước đức đều do chính mình tự cầu.” Như vậy, kẻ làm việc xấu ác tự nhiên sẽ mất phước đức...
(Xem: 21989)
Từ thơ ấu, Tuệ Trung đã được khen là thông minhdịu dàng. Giữ chức Thống Đốc Hồng Lô (bây giờ là tỉnh Hải Dương), ngài đã hai lần đẩy lui quân Mông Cổ xâm lược, và được thăng chức Tiết Độ Sứ trấn cửa biển Thái Bình.
(Xem: 17579)
Ý thức được cái chết là điều hệ trọng: phải hiểu rằng ta không ở lâu trên địa cầu này. Không ý thức được cái chết, ta sẽ không thể tận dụng toàn vẹn cuộc sống của ta.
(Xem: 30986)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 28106)
Để hiểu Đạo Phật là gì? Ta hãy gạt mọi thiên kiến chỉ cần tìm sâu vào nguồn giáo lý cao đẹp ấy, một nền giáo lý xây dựng trên sự thật để tìm hiểu sự thật, do đức giáo chủ Thích Ca Mâu Ni sáng lập... HT Thích Đức Nhuận
(Xem: 14890)
Bằng cách tập trung vào sự kiện của tình trạng bị quy định chặt chẽ và sự cần thiết cho tinh thần phải trải qua một cách mạng, Krishnamurti dẫn chúng ta đến nền tảng chung, đến cái nguồn của cả cá thể lẫn xã hội.
(Xem: 17178)
Tác phẩm Phật Giáo và Khoa Học của giáo sư Phúc Lâm là một trong số ít các tác phẩm về thể tài phân tích Phật giáo dưới cái nhìn của khoa học.
(Xem: 22644)
Ngày nay đã qua, đời sống ngắn lại, Hãy nhìn cho kỹ, ta đã làm gì? Hãy cùng tinh tấn, thiền tập hết lòng, Đừng để tháng ngày trôi đi oan uổng.
(Xem: 28300)
Bởi vì niềm hạnh phúc và chính sự tồn tại của chúng ta là kết quả của sự giúp đỡ bảo bọc của mọi người, chúng ta phải phát huy thái độ cư xử tốt đẹp của mình đối với mọi người xung quanh.
(Xem: 14039)
Mỗi giây phút trong cuộc sống đều tượng trưng cho một giá trị vô biên. Thế nhưng chúng ta lại cứ để cho thời gian trôi đi như những hạt cát vàng lọt qua kẻ hở của bàn tay
(Xem: 17072)
Thông điệp của Đức Bổntuyên thuyết từ hơn hai mươi lăm thế kỷ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó là thông điệp về sự tỉnh thức, về trí tuệ siêu tuyệt và về lòng từ bi nhân ái.
(Xem: 22326)
Không biết rửa bát thì khi cầm tách trà lên, có thể ta cũng không biết uống trà. Cầm tách trà lên ta có thể chỉ nghĩ đến những chuyện khác mà không biết là ta đang nâng tách trà trong tay.
(Xem: 14188)
Chúng ta cần biết ý nghĩa Giáo Pháp là gì. Giáo Pháp hay Pháp bảo là một từ ngữ tiếng Phạn mà có nghĩa đen là một “phương sách phòng ngừa”.
(Xem: 21502)
Phật giáo nhìn tính dục dưới khía cạnh của sự thèm khátđau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con người vào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
(Xem: 20842)
Ðức Phật — Ðấng hoàn toàn giác ngộ — thuộc họ Gautama tên là Siddartha. Danh xưng Tất-đạt-đa có nghĩa là Nhất thiết nghĩa thành, Thành tựu chúng sinh...
(Xem: 28576)
Hai mươi bốn bài pháp thoại trong quyển sách này được giảng theo tinh thần của Kinh Đại Bát Niết Bàn, chú trọng vào sự thực hành nơi bản thân, 'xem Pháp là nơi nương trú, là hải đảo của chính mình".
(Xem: 15084)
Tôn giáo được giới thiệu ở đây là một hệ thống giáo dục thiết thựcvăn hóa tinh thần được khám phá ra cho thế gian cách đây chừng 25 thế kỷ bởi một Vị Ðạo Sư hoàn toàn giác ngộtừ bi.
(Xem: 26621)
Cuốn sách mang đến cho bạn đọc những suy ngẫm nghiêm túc về hạnh phúc mà đôi khi có thể chúng ta ngộ nhận hoặc lầm lẫn với niềm sung sướng.
(Xem: 19307)
Đức Phật dạy rằng nếu muốn tự giải thoát ra khỏi thế giới Ta bà thì phải tuân theo ba lời giáo huấn tối thượng như sau : đạo đức, chú tâmtrí tuệ. Khi nào biết noi theo ba lời giáo huấn ấy thì ta sẽ đạt được sự giải thoát cá nhân...
(Xem: 31655)
Trong khi Đức Phật tạo mọi nỗ lực để dẫn dắt hàng đệ tử xuất gia của Ngài đến những tiến bộ tâm linh cao cả nhất, Ngài cũng nỗ lực để hướng dẫn hàng đệ tử cư sĩ tiến đến sự thành công...
(Xem: 30684)
Khi nào chim sắt bay là một cuốn sách ghi lại toàn bộ một khóa tu thiền do một trong những Đạo sư phương tây được yêu thích nhất, đó là Ni sư Ayya Khema hướng dẫn.
(Xem: 21034)
Đạo Phật nhận rằng: Vạn vật chúng sinh đều có Phật tính. Con người đều có khả năng thành Phật. Do đấy, con người trong đạo Phậtcon người của mọi tầng lớp xã hội, mọi quốc gia...
(Xem: 26287)
Tu họchành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm. Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực...
(Xem: 23613)
Hình ảnh của Bồ Tát Quán Thế Âm trong thân tướng nữ nhân, tay cầm bình tịnh và cành dương liễu, còn được gọi dưới danh hiệu PHẬT BÀ QUAN ÂM NAM HẢI, là 1 hình ảnh rất gần gũi với dân tộc Việt Nam...
(Xem: 25654)
Vào khoảng đầu năm 1996, tình cờ tôi được xem một bức tranh của họa sĩ Samyot Hananundasule, trong cuộc triển lãm dưới chủ đề "Nhìn lại quá khứ" tại Viện Nghệ thuật Quốc gia Thái Lan.
(Xem: 25459)
Phật Pháp là một hệ thống triết họcluân lý truyền dạy con đường duy nhất dẫn đến Giác Ngộ, và như vậy, không phải là một đề tài để học hỏi hay nghiên cứu suông...
(Xem: 19749)
Cuốn sách nhỏ này trước hết dành cho độc giả trí thức chưa có hiểu biết đặc biệt gì về Phật pháp, mà muốn biết thực sự đức Phật đã dạy những gì.
(Xem: 18507)
Cuốn sách là những chỉ dẫn đơn giản, dễ hiểu về cách nhìn sự vật và cách sống theo giáo pháp của đức Phật, về cách thương yêu chính mình...
(Xem: 17814)
Thiên đườngđịa ngục là những khái niệm hầu như không xa lạ đối với bất cứ ai trong chúng ta. Tuy vậy, trong thực tế thì chúng ta luôn có những cách hiểu và cảm nhận khác nhau...
(Xem: 19087)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant