Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 5: Quả báo của sự chế nhạo

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 5036)
Chương 5: Quả báo của sự chế nhạo

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 5: QUẢ BÁO CỦA SỰ CHẾ NHẠO

Theo giáo lý của đạo Gia Tô thì tánh kiêu ngạo là một trong bảy tội lớn nhất của con người. Cũng như tất cả những tín điều khác của đạo Gia Tô, điều này rất lý thú, nhưng dường như hơi cách xa những vấn đề thực tế về sự đau khổ của nhân loại. Tuy nhiên, nếu chúng ta chấp nhận những bằng chứng trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì sự kiêu ngạo có thể tạo nên nghiệp quả đau đớn xác thân, nhất là khi nó biểu lộ bằng sự chế giễu hay sự khinh bỉ. Một cái cười độc ác hay những lời nói gièm pha, chỉ trích, chê bai, dường như gây một cái nhân tương đương với một hành động bạo tàn, và sẽ mang đến quả báo tương ứng là người chế nhạo sẽ bị một thứ bệnh tật, tai ương, đau khổ không kém người bị anh ta chế giễu!

Những hồ sơ của ông Cayce có ghi chép bảy trường hợp mà những bệnh tật đau khổ nặng nề có thể truy nguyên ra từ những hành động chế nhạo nói trên. Có điều hơi lạ là sáu trường hợp trong số đó xảy ra trước hết ở La Mã, trong thời kỳ khủng bố đạo Gia Tô. Về điểm này, một lần nữa chúng ta lại thấy những nhóm người sống trong cùng một thời kỳ lịch sử thường tái sinh cùng lúc vào một thời kỳ khác. Trong số đó có ba trường hợp về bệnh liệt bại.

Trường hợp thứ nhất là của một người đàn bà bốn mươi lăm tuổi, có ba người con. Chồng bà làm một nghề tự do. Năm ba mươi tuổi, bà bị liệt bại cả hai chân và không thể đi đứng vận động gì được cả. Từ đó, bà phải ngồi trên một chiếc xe lăn và phải có người giúp đỡ mỗi khi muốn cử động.

Cuộc soi kiếp cho biết nguyên nhân bệnh trạng của bà là một tiền kiếp dưới thời kỳ đế quốc La Mã. Hồi đó, bà là một người trong dòng dõi quí tộc của triều vua Néron và trực tiếp tham gia việc khủng bố những người theo đạo Gia Tô. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce nói:

– Người này đã cười khi thấy những người khác bị hành hình trên vũ đài, và bây giờ người này phải chịu cảnh đau khổ tương tự như của những người ấy!

Trường hợp thứ hai, có lẽ là trường hợp đau khổ nhất trong tập hồ sơ Cayce, là của một người đàn bà ba mươi bốn tuổi, bị liệt bại từ năm lên sáu tuổi, làm cho bà bị què chân và xiêu vẹo xương sống. Người cha chẳng những rất thản nhiên với bệnh trạng của bà, mà còn lấy hết tiền bạc của bà dành dụm được trước đó. Số phận của bà càng hẩm hiu hơn nữa vì hai cuộc tình duyên đau khổ. Người yêu đầu tiên bị tử trận trong cuộc Thế chiến thứ nhất. Sau đó bà đính hôn với một người đàn ông khác, nhưng người này lại bị đau nặng và khi vừa khỏi bệnh thì liền cưới ngay cô nữ y tá đã săn sóc anh ta trong bệnh viện! Ngoài ra những đau khổ về thể xác và tình cảm trên đây, còn thêm nào là những cảnh tượng gây gổ trong gia đình giữa cha mẹ, một đời sống cô độc thiếu thốn ở thôn quê, và một lần té ngã trên những bậc thang bằng đá, làm cho bà phải nằm liệt giường và bị thêm một tật khác ở xương sống: người ta không thể tưởng tượng một cuộc đời đau khổ hơn nữa!

Nguyên nhân của tình trạng này thuộc hai kiếp về trước ở đế quốc La Mã. Trong cuộc soi kiếp, ông Cayce cho biết:

– Người này thuộc về dòng dõi nhà vua Palatius, và thường đến vũ đài xem những cuộc đấu võ bắt buộc giữa các tội nhân, hoặc giữa một tội nhân với một con thú dữ. Sự đau khổ hiện thời phần lớn là vì người này đã cười cợt một cách khinh bỉ trước sự yếu đuối bất lực của những tù nhân bị thú dữ xé xác trên vũ đài!

Trường hợp thứ ba là của một nhà sản xuất phim ảnh, bị chứng liệt bại từ khi lên mười bảy tuổi, và hiện thời hãy còn có tật ở chân. Nguyên nhân cũng là vào thời kỳ chống đạo Gia Tô ở đế quốc La Mã. Khi soi kiếp, ông Cayce cho biết:

– Người này thuở xưa làm lính đao phủ của nhà vua, và đã cười cợt chế nhạo những kẻ tỏ ra sợ sệt hoặc những người bị ngã quỵ trên vũ đài dưới ngọn đao hành tội của anh ta. Anh ta đã gây tội ác không chỉ vì phải làm phận sự của người đao phủ, mà còn vì đã khinh bỉ chế nhạo những người theo một lý tưởng tôn giáo. Trong kiếp này, anh ta phải mang một thể xác tàn tật để trải qua những kinh nghiệm đau khổ mà các nạn nhân xưa kia của anh ta đã chịu đựng.

Dưới đây là bốn trường hợp lý thú mà sự chế nhạo lại bị những quả báo khác hơn là bệnh liệt bại.

Trường hợp thứ nhất là trường hợp của một thiếu nữ bị chứng lao xương. Trong kiếp trước đây, cô có mặt trong nhóm người đầu tiên đến khai thác thuộc địa ở Bắc Mỹ. Tuy nhiên, bệnh trạng của cô được truy nguyên ra từ một kiếp trước nữa ở La Mã. Hồi đó, cô thuộc dòng quí tộc dưới triều vua Néron, và hay mua vui bằng cách đến xem những cảnh hành tội tín đồ đạo Gia Tô trên các vũ đài. Cảnh tượng một thiếu phụ bị móng vuốt sư tử cào rách một bên hông đã làm cho đương sự vô cùng vui thích và cười đùa một cách khoái trá!

Trường hợp thứ hai là một thiếu nữ mới mười tám tuổi, lẽ ra đã có một vẻ đẹp quyến rũ nếu không bị béo phì! Các bác sĩ y khoa nói rằng đó là do một tuyến nội tiết hoạt động quá độ. Cuộc khám bệnh bằng thần nhãn của ông Cayce cũng xác nhận có sự sai lệch trong sự hoạt động của tuyến nội tiết; nhưng một cuộc soi kiếp sau đó tiết lộ rằng chứng bệnh của cô ta có một nguyên nhân sâu xa hơn, là một chứng bệnh về nhân quả. Hai kiếp trở về trước, cô là một lực sĩ ở thành La Mã, nổi tiếng trong môn điền kinh và có vẻ đẹp cân đối của thân hình lực lưỡng. Nhưng người này hay chế nhạo những lực sĩ khác nặng cân hơn và thua kém y về sự khéo léo lanh lẹ cũng như không có sự cân đối vóc dáng.

Trường hợp thứ ba là của một thanh niên hai mươi mốt tuổi, theo đạo Gia Tô. Cha mẹ anh ta muốn cho anh sau này trở nên một giáo sĩ; nhưng anh ta thấy rằng điều đó không hợp với sở thích của mình. Anh ta bèn từ chối không chịu nghe theo. Thế rồi anh ta phát hiện ra mình mắc phải bệnh đồng tính luyến ái. Anh ta bèn đến nhờ ông Cayce soi kiếp, và được biết rằng trong tiền kiếp dưới một triều vua ở nước Pháp anh đã từng là một họa sĩ chuyên về lối vẽ hoạt kê hài hước. Bằng một nét bút sắc sảo và linh động, người này thường hay vẽ những cảnh luyến ái giữa những người đồng tính với nhau để làm trò cười cho thiên hạ. Cuộc soi kiếp kết luận như sau:

– Anh chớ lên án kẻ khác nếu anh không muốn bị lên án. Anh cười người khác bao nhiêu, anh sẽ phải bị người cười bấy nhiêu, và anh lên án kẻ khác về điều gì, thì chính anh sẽ mắc phải điều đó!

Trường hợp thứ tư là một thiếu niên bị tai nạn xe hơi hồi mười sáu tuổi, làm cho anh ta bị đứt tiện ngang tủy xương sống. Các bác sĩ chuyên môn đều nói rằng anh ta sẽ không thể sống được, nhưng rốt cuộc anh vẫn sống sót. Anh ta bị bại liệt hoàn toàn cả nửa thân mình, từ đốt xương sống thứ năm trở xuống và kể từ khi đó không thể rời khỏi chiếc xe lăn. Lúc anh ta được ba mươi ba tuổi, nghĩa là mười bảy năm sau khi tai nạn xảy ra, mẹ anh ta đến nhờ ông Cayce soi kiếp cho con mình. Cuộc soi kiếp cho biết rõ hai tiền kiếp: Một kiếp vào thời Cách mạng ở Bắc Mỹ, khi đó người này phục vụ trong quân đội và tỏ ra là một sĩ quan ưu túcan đảm. Do kinh nghiệm trong kiếp đó mà kiếp này anh ta có được những đức tính kỷ luật, trật tự, yêu đời và khả năng quyền biến. Trong kiếp trước nữa ở La Mã vào đầu Công nguyên, người này đã tạo ra cái nhân của thảm trạng hiện tại. Hồi đó anh ta là một người lính trong đạo binh La Mã và lấy làm khoái trá mà nhìn thấy sự đau khổ của những người theo đạo Gia Tô bị hành hình ở pháp trường. Anh ta đã từng thi đấu trên vũ đài, và về sau anh ta thường nhìn xem những địch thủ của mình chống chọi với các con thú dữ. Anh ta đã nhìn thấy rất nhiều cảnh tượng tàn ác, gây sự đau khổ chết chóc, nhưng không chút động lòng. Kết quả là trong kiếp này anh ta phải tự mình chịu đựng sự đau khổ, và cũng phải tập chịu đựng một cách thản nhiên nhưng với một mục đích khác hẳn.

Có điều lý thú là trong những trường hợp kể trên, gồm có ba người bị liệt bại từ nhỏ, một người bị bệnh lao xương, một người béo phì, một người có bệnh đồng tính luyến ái, một người giập tủy xương sống, tất cả là bảy người nhưng không có trường hợp nào là bệnh di truyền!

Trong mỗi trường hợp, bệnh trạng chỉ xuất hiện sau khi đương sự đã sinh ra đời, ở vào khoảng giữa năm lên một và năm ba mươi sáu tuổi. Trong một trường hợp, bệnh tật do tai nạn xe hơi gây ra. Nhưng dầu thế nào, phía sau cái nguyên nhân hiển hiện vẫn còn ẩn khuất một nguyên nhân sâu xa hơn. Khi chúng ta nhìn thấy trong một tai nạn xe cộ, có người bị thiệt mạng, có người lại sống sót, có người bị thương tích nặng nề, có người lại không bị một vết trầy da... chúng ta thường xem những điều đó như một sự may rủi, tình cờ. Nhưng nếu ta xét những trường hợp kể trên thì thấy rằng dường như có sự tác động của một sức mạnh vô hình, dầu rằng trong sự hỗn loạn của một tai nạn xảy ra bất thình lình. Và như thế những quả báo xảy đến cho mỗi người đều đúng luật công bình, không mảy may sơ sót.

Mới nghe qua những trường hợp kể trên, người ta thấy rằng dường như những quả báo xảy đến có vẻ quá nặng nề đối với một việc không quan trọng như là một tiếng cười nhạo, nhưng nếu chúng ta suy xét kỹ thì sẽ thấy quả thật có sự công bằng. Một người đùa cợt nhạo báng trước sự đau khổ của kẻ khác tức là kết án người này về những hoàn cảnh đau khổ của họ mà không hề cảm thông được cái nguyên nhân ẩn tàng. Người ấy khinh bỉ quyền tự do của người khác, dầu cho đó là sự tự do lỗi lầm mà mỗi người đều phải trải qua để rút ra những bài học kinh nghiệm tự thân. Người ấy chà đạp, dày xéo cái nhân cách, cái giá trịtính cách thiêng liêng của mỗi con người, dầu rằng con người ấy có bị rơi vào sự đốn hèn, sa đọa hay lố bịch đi chăng nữa. Ngoài ra, người ấy còn rơi vào sự tự tôn khi cho rằng mình cao quý hơn kẻ mà mình đang chế giễu đùa cợt.

Trong sự chế giễu đùa cợt, có một hình thức tự tôn rất bỉ ổi làm cho đương sự cách biệt rất xa với lòng nhân ái, với tình thương bao la đối với nhân loạivạn vật.

Những điều kể trên làm cho ta phải nhớ đến những giáo lý răn dạy người đời, được chứa đựng trong một quyển sách về đạo lý cổ truyền. Chúng ta bắt đầu nhận thấy rằng thật là hữu phước thay cho người nào thoát khỏi được cái thói xấu hay nhạo báng đùa cợt. Tác giả bộ Thánh Thi đã tỏ ra có một bản năng sáng suốt khi ghi lại những lời này:

– Tôi sẽ thắng dây cương ở đôi môi của tôi để khỏi phải gây tội lỗi vì cái lưỡi.

– Ngươi chớ xét đoán kẻ khác nếu ngươi không muốn bị người khác xét đoán! Vì ngươi sẽ bị kết án cũng như ngươi đã kết án kẻ khác vậy.

Đức Jesus cũng nói rằng:

– Kẻ nào mắng người khác là “đồ ngu” sẽ bị thiêu đốt dưới ngọn lửa địa ngục!

Xét về những trường hợp mà sự chế nhạo đùa cợt bị mang lấy quả báo vô cùng thảm khốc như đã kể trên, thì lời nói của đức Jesus hẳn là có một ý nghĩa sâu xa thâm trầm về phương diện tâm lý vậy.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14878)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17817)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18227)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 15009)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13203)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21179)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32601)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15328)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12357)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12838)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27552)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12149)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34979)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17755)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11835)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12654)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14572)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32481)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19464)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12975)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14091)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14150)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14138)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53205)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11678)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13931)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13824)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20712)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14315)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13436)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13637)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34200)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16234)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14208)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13572)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15935)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13524)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22998)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27751)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13910)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24998)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13958)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31341)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15569)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14987)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant