Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Quả báo không tức thì

05 Tháng Ba 201100:00(Xem: 4862)
Chương 7: Quả báo không tức thì

NHỮNG BÍ ẨN CUỘC ĐỜI
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính

CHƯƠNG 7: QUẢ BÁO KHÔNG TỨC THÌ

Một điều lạ lùng mà ta có thể nhận thấy trong những trường hợp quả báo về xác thân như đã kể trên, là những quả báo chỉ xuất hiện một hay nhiều kiếp sau khi cái nhân đã được tạo ra. Người ta tự hỏi, tại sao lại có sự chậm trễ đó, tại sao nghiệp quả không báo ứng ngay tức khắc như một quả banh dội lại ngay sau khi được ném vào tường?

Dường như câu hỏi đó có nhiều cách giải đáp. Một là sau khi đã gây nhân tạo nghiệp, cần phải đợi đến khi có một hoàn cảnh thuận tiện cho cái nhân kia kết lại thành quả. Có khi phải đợi qua nhiều thế kỷ mới hội đủ các điều kiện. Trong khoảng thời gian đó, tất nhiên là mỗi người đều có được những cơ hội để cải thiện tâm tính, tu dưỡng tinh thần, và nhờ đó có thể giúp cho quả báo trở nên giảm nhẹ hơn.

Người ta tìm thấy một thí dụ về loại quả báo không tức thì này trong những tập hồ sơ Cayce về những tâm thức trước kia đã từng sinh ra ở châu Atlantide. Khoa học chưa bao giờ có thể xác nhận hay phủ nhận sự hiện diện của châu Atlantide vĩ đại và cổ xưa nay đã chìm dưới đáy Đại Tây Dương, mặc dầu người ta có đủ lý do để tin vào sự kiện ấy trước rất nhiều bằng chứng lịch sử, khoa học và văn hóa.

Một tài liệu lịch sử quan trọng là bộ sách “Crisias và Timeus” của Platon. Trong đó, tác giả tường thuật những điều ông đã nghe nói về châu Atlantide.

Một trong những bằng chứng khoa học thường được nêu ra là sự khám phá của các nhà bác học, nhân dịp một sợi dây cáp ngầm dưới Đại Tây Dương bị đứt và chìm xuống đáy biển ở một độ sâu ba ngàn thước. Khi sợi dây cáp được vớt lên, thì nó dính theo những mẫu phún thạch (lava). Khi người ta phân tích những mẫu phún thạch này thì thấy rằng ngày xưa chúng đã từng đông đặc lại trên đất liền trước khi chìm xuống đáy biển.

Trong những bằng chứng văn hóa đáng kể nhất thì trước hết là những huyền thoại về cuộc đại hồng thủy. Người ta không chỉ gặp những huyền thoại này trong bộ Kinh Thánh (Bible), mà còn cả trong những truyện thần thoại tôn giáolịch sử của hầu hết những dân tộc cổ xưa trên thế giới.

Kế đó là những điểm tương đồng giữa những ngôn ngữ, văn tự và kiến trúc của Ai Cập và Trung Mỹ, ở vào một thời kỳ mà người ta không thấy có những phương tiện giao thông giữa hai lục địa châu Mỹ và châu Phi.

Tất cả những bằng chứng kể trên có thể giúp cho người ta tin tưởng vào sự hiện diện của châu Atlantide, dù vẫn chưa đủ để đưa đến một kết luận chắc chắn. Nhưng nếu ta tin vào kết quả những cuộc soi kiếp của ông Cayce, thì châu Atlantide đã từng hiện hữu một cách hiển nhiên, không còn nghi ngờ gì nữa.

Theo ông Cayce, một vài gian phòng bí mật hãy còn khóa chặt trong Đại Kim tự tháp ở Ai Cập, một ngày kia sẽ có thể tiết lộ cho chúng ta một kho tài liệu đầy đủ về lịch sử và nền văn minh của châu Atlantide. Ông Cayce cho biết rằng, những tài liệu đó được chôn giấu trong Kim tự tháp bởi những người dân Atlante ngày xưa di cư qua Ai Cập trong cuộc thiên tai địa chấn lần thứ ba và cũng là lần cuối cùng đã nhận chìm châu Atlantide xuống đáy biển vào khoảng chín ngàn năm trăm năm trước Tây lịch.

Ông Cayce cũng nói rằng, đảo Bimini ở ngoài khơi tiểu bang Florida (Hoa Kỳ), nguyên là đỉnh một ngọn núi cao ở châu Atlantide ngày xưa. Ông cũng cho biết rằng tại nơi đó, người ta có thể tìm thấy dưới đáy biển một ngôi đền cổ của dân Atlante. Mái bầu của ngôi đền được xây cất với những tấm kiếng thủy tinh theo một kiểu kiến trúc đặc biệt để thâu ánh nắng mặt trời.

Những cuộc soi kiếp cũng cho biết dân Atlante ngày xưa đã từng đạt tới một trình độ khoa học tiến bộ hơn cả chúng ta ngày nay. Họ đã từng phát triển đến một mức độ rất cao trong các ngành điện khí, vô tuyến điện, vô tuyến truyền hình, những phương tiện di chuyển trên không trung, tàu ngầm, cùng phương pháp sử dụng năng lượng mặt trờinăng lượng nguyên tử. Họ đã từng phát minh những kỹ thuật dùng nhiệt lượng để thắp sáng và vận chuyển tiến bộ hơn chúng ta ngày nay.

Điều đáng ghi nhớ là những cuộc soi kiếp của ông Cayce thường lặp đi lặp lại nhiều lần rằng dân Atlante ngày xưa bị họa diệt vong vì họ đã lạm dụng những sức mạnh kinh khủng mà họ chế ngự được. Họ dùng điện lực, khoa thôi miênsức mạnh của tư tưởng để đàn áp, chế ngự kẻ khác, hoặc sai khiến người khác làm việc như những nô lệ, hoặc để cưỡng hiếp phụ nữthỏa mãn sắc dục.

Những sự lạm dụng quyền năng và những hành vi trái đạo kể trên không thể cứu chuộc được một cách đầy đủ và trọn vẹn cho dù những kẻ phạm lỗi ấy đã phải trải qua nhiều thời kỳ đớn đau khổ nhục để bù đắp, trong những thời kỳ mà khoa học chưa được phát triển và người ta chưa có những kiến thức sâu rộng về khoa tâm lý hoặc khoa huyền môn. Sự thử thách hữu hiệu nhất để biết một người đã thắng được thói ăn uống vô tiết độ hay chưa là đặt trước mặt anh ta những món cao lương mỹ vị, để xem anh ta có biết tự chủ hay không? Người ta không thể biết được một người đã hoàn toàn tự chủ về sắc dục hay chưa, nếu người ấy chưa gặp phải sự thử thách và bị cám dỗ mà vẫn không động lòng như thánh Antoine ngày xưa, lòng vẫn thanh tịnh giữa những giai nhân tuyệt sắc, đáng yêu! Cũng vậy, những kẻ tội lỗi đã từng lạm dụng những quyền năng phi thườngmầu nhiệm nhờ sự phát triển khoa học của châu Atlantide thuở xưa, chưa hẳn đã thực sự từ bỏ thói ích kỷ tham tàn và thay đổi tâm tính, nếu họ chưa gặp những hoàn cảnh tương tự của một thời kỳ phát triển khoa học và kỹ thuật như thời đại này để thử thách xem họ có biết dùng những phương tiện đó với một tinh thần xây dựng, hay là với mục đích ích kỷ hại nhân như thuở trước.

Sự tiến bộ theo từng chu kỳ của lịch sử đã làm cho thế kỷ hai mươi trở nên một thời kỳ phát triển khoa học như vừa nói trên. Vì thế, những cuộc soi kiếp của ông Cayce tiết lộ rằng có rất nhiều người dân Atlantide thời cổ nay đã tái sinh vào thời kỳ hiện tại.

Những tiến bộ về kỹ thuật và khoa học của thời đại này có thể hiểu theo hai cách. Trước hết, đó là kết quả những kinh nghiệm về phát minh khoa học mà những người dân Atlantide đã mang theo từ những tiền kiếp quá khứ xa xăm của họ ở châu Atlantide ngày xưa. Thứ hai, thời kỳ này có thể xem là giai đoạn thử thách cho những con người đã từng phạm tội đó, để bộc lộtrong suốt thời gian qua họ đã thâu thập được những đức tính gì khả dĩ giúp cho họ chống lại sự cám dỗ do thói ích kỷ và tàn bạo còn rơi rớt lại của thế hệ văn minh khoa học vật chất.

Vì thế, có vẻ như yếu tố căn bản quyết định vấn đề quả báo không tức thì là việc những ai đã gây nghiệp quả xấu phải chờ đến khi tái sinh vào một thời kỳ thuận tiện, hội đủ những điều kiện để quả báo xấu của họ thực sự chín muồi.

Vấn đề này hình như cũng có liên quan đến sự tiến bộ từng chu kỳ của lịch sử và sự luân phiên của những tâm thức tương đồng trong việc tái sinh cùng lúc vào những thời kỳ thích hợp. Những trào lưu chủng tộc và các sắc dân trên địa cầu dường như cũng tái sinh trở lại thế gian theo từng giai đoạn, ví như những luồng sóng dập dồn nối nhau từng chu kỳ, theo định luật tuần hoàn của vũ trụ.

Tuy nhiên, có nhiều đoạn ghi nhận trong các cuộc soi kiếp của ông Cayce chỉ ra rằng sự tái sinh của các nhóm thiểu số trong những nhóm lớn đó, và thậm chí trường hợp của từng cá nhân trong các nhóm ấy, không phải do một sự tiền định hoặc theo từng khuôn mẫu hay chu kỳ nhất định. Trường hợp của mỗi một tâm thức cũng như từng nhóm tâm thứcnghiệp lực tương đồng không phải bao giờ cũng tái sinh một cách đều đặn như một sự việc đã định sẵn. Điều này còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác tác động từ bên ngoài (các duyên) cũng như những thay đổi bên trong của từng tâm thức riêng biệt.

Về điểm này, cũng như trên những lãnh vực khác của sự sống trong vũ trụ, con người vốn luôn có quyền tự do ý chí, và mỗi cá nhân hay một nhóm người đều luôn có quyền tự do chọn lựa những điều kiện liên quan đến sự tái sinh của mình, nếu họ có đủ sáng suốt. Nhận xét này gợi lên một sự phức tạp mới nữa: Nếu một tâm thức muốn phát triển những đức tính hay công hạnh nào đó, tâm thức ấy cần có sự chọn lựa một thời điểm tái sinh thích hợp, với những điều kiện thích hợp Và sự tu dưỡng của cá nhân mỗi tâm thức cũng là điều kiện góp phần vào việc tâm thức ấy có phải tức thời nhận lãnh những quả báo xấu mà mình đã tạo ra hay không.

Những sự kiện kể trên là những yếu tố góp phần giải thích hiện tượng quả báo không tức thì sự tu dưỡng tinh thần là một yếu tố quan trọng luôn phải được xét đến, bởi nó vừa mang tính chủ quan của mỗi cá nhân, vừa tạo ra những tác động khách quan khiến cho mọi hoàn cảnh đều có thể thay đổi. Với sự tu dưỡng tinh thần, người ta có thể chịu đựng những quả báo xấu khi chúng xảy đến và xem đó như những cơ hội để rèn luyện, tu dưỡng, nhằm hoàn thiện tinh thần hơn nữa. Mặc dù không thể tránh khỏi việc nhận lãnh những quả báo xấu do lỗi lầm đã mắc phải trong quá khứ, nhưng một người biết tu dưỡng có thể xem đó chính là cơ hội để thâu thập, rèn luyện những đức tính cần thiết để tiếp tục đương đầu với quả báo khác nữa khi nó tuần tự xảy đến trong cuộc luân hồi.

Nhiều người bệnh tật khi được ông Cayce soi kiếp và được cho biết rằng nguồn gốc bệnh trạng của họ được truy nguyên ra từ nhiều kiếp trước, đều lấy làm tò mò muốn biết lý do của sự kéo dài như thế. Những người muốn làm sáng tỏ vấn đề này bằng một cuộc soi kiếp thứ nhì, đều nhận được câu trả lời giống như của cô thiếu nữ què mà chúng tôi đã kể chuyện trong chương 5. Cô này hỏi:

– Tại sao đến kiếp này tôi mới phải trả nghiệp quả mà tôi đã gây ra từ thời đế quốc La Mã?

Cô ấy được trả lời như sau:

– Bởi vì không có đủ những điều kiện thích hợp để quả báo của cô chín muồi vào một thời điểm sớm hơn.

Như vậy, khi một quả báo xấu không đến sớm hơn, đó là vì có những nguyên do chủ quan bên trong lẫn những điều kiện khách quan bên ngoài. Trong trường hợp này cũng như nhiều trường hợp bệnh tật khác, một sự nghiên cứu tỉ mỉ về những kiếp trung gian thường cho thấy rằng đương sự đã có những chuyển hóa tốt đẹp hơn qua sự tu dưỡng, hoặc biết tận dụng nhiều cơ hội để phát triển thêm những đức tính và có sự tiến hóa về mặt tinh thần. Chính vì thế mà những điều kiện nhân duyên thuận lợi cho sự chín muồi của một quả báo xấu đã không được tạo ra.

Thí dụ, nếu chúng ta xét lại trường hợp của người thiếu niên mười sáu tuổi, bị thương nặng trong vụ tai nạn xe hơi như đã kể trên, chúng ta thấy rằng nguyên nhân của nghiệp quả này là do anh ta đã gieo từ thời kỳ đế quốc La Mã. Tuy nhiên, trong một kiếp trước đây khi tái sinh vào thời kỳ Cách mạng ở Bắc Mỹ, anh ta cho thấy có sự phát triển nhiều đức tính như lòng can đảm, yêu đời và khả năng khai thác khía cạnh tốt của mọi hoàn cảnh. Những đức tính đó hoàn toàn không phải tự nhiên có được, mà nó biểu lộ sự nỗ lực của các nhân trong sự vươn lên hoàn thiện chính mình. Và điều đó không phải gì khác hơn mà chính là một trong những hình thức tu dưỡng tinh thần. Nhờ đó mà những điều kiện thích hợp cho sự chín muồi của một quả báo xấu đã bị ngăn chặn.

Một thí dụ sau đây có thể giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn về vấn đề này. Một người vay tiền của ngân hàng để kinh doanh. Anh ta không thể trả hết số nợ đó trong vài ngày hay một tuần lễ, hoặc một tháng ngay sau khi vay. Việc kinh doanh của anh ta cần có thời gian, và vì thế sự trả nợ cũng phải có một thời gian, kỳ hạn nhất định. Những món nợ nghiệp quả cũng tương tự như thế, cần có một kỳ hạn nhất định trước khi chín muồi và biểu hiện thành những sự kiện tốt hay xấu trong đời người.

Đó là những lý do khách quan cũng như chủ quan có thể giải thích cho việc người ta thường không nhận lãnh những quả báo xấu một cách tức thì.

Nếu một ngày kia thuyết luân hồi được tất cả mọi người thừa nhận, và nếu quan niệm về nhân quả được quần chúng Tây phương cũng như Đông phương hiểu rõ, ít nhất là trên nguyên tắc đại cương, thì chắc chắn vấn đề quả báo không tức thì sẽ có ý nghĩa răn đe hữu hiệu đối với rất nhiều người! Cái ý tưởng rằng một hành động độc ác nào đó trong quá khứ rồi chắc chắn sẽ dẫn đến những quả báo phải chịu đui mù, tàn tật trong một kiếp tương lai xa hay gần sẽ là một bản án treo làm cho người ta phải cảm thấy lo sợ, cân nhắc mỗi khi sắp phạm vào một sự lỗi lầm. Đối với những người nhạy cảm và có đức tin mạnh mẽ thì một món nợ nhân quả không được biết rõ cũng ví như một lưỡi gươm của Damoclès treo lủng lẳng phía trên và chực chờ rơi xuống đầu họ bất cứ lúc nào, và điều đó có tác dụng giúp họ luôn phải biết lo sửa mình tu dưỡng thay vì sống buông trôi theo lạc thú.

Đối với một số người thì thuyết nghiệp quả có thể chỉ là một sự dọa dẫm mơ hồhoàn toàn không có cơ sở khoa học, cũng như hình tượng quỷ Satan và lửa hỏa ngục đã từng là một mối đe dọa làm nhiều người sợ hãi trong nhiều thế hệ đã qua! Để chống lại cái khuynh hướng sợ sệt mơ hồ đó, họ đi đến việc phủ nhận toàn bộ vấn đề quả báo, cũng như phong trào Khoa học Công giáo (Science Christienne) đã từng phủ nhận mọi tội lỗi, sự lầm lạc... Tuy nhiên, sự phủ nhận vật chất thế gian cũng như vấn đề tội lỗiquả báo không có ý nghĩa giải quyết vấn đề! Điều nên làm của chúng ta không phải là giấu giếm sự thật, như con chim đà điểu vùi đầu xuống cát để giấu mình, mà là phải thấu hiểu được sự thật để biết tự chế phục mình và xây dựng cuộc đời này theo những lý tưởng hay khuynh hướng tâm linh cao cả.

Sự phủ nhận nhân quả chẳng khác nào không thừa nhận những món nợ mà mình phải trả hay những bài học mà mình cần phải học hỏi, và đó là một thái độ bất lương. Kẻ nào muốn gạt gẫm hay trốn tránh trách nhiệm, dầu đó là những trách nhiệm vật chất hay tinh thần, đều không thể gây cho người khác lòng mến phục.

Thói thường, khi người ta không thích một điều gì, người ta hay lý luận một cách khôn khéo để phủ nhận điều ấy. Đó cũng là một sự trốn tránh trách nhiệm. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là mọi sự lý luận hay dẫn dụ (suggestion) đều là vô ích. Trái lại, sự dẫn dụ có thể rất hữu ích để chữa những bệnh trạng thuộc về tâm lý. Chúng ta đã thấy trường hợp lý thú của đứa trẻ bị chứng bệnh đái dầm và phương pháp dẫn dụ để đánh tan mặc cảm tội lỗi hằn sâu trong tiềm thức, đã chữa cho em ấy được khỏi bệnh.

Nếu các nhà tâm lý học muốn chữa những chứng bệnh về mặc cảm tội lỗi thì phương pháp điều trị tốt nhất là làm cho bệnh nhân thành thật nhìn nhận những tội lỗi đã gây ra; bày tỏ một ý muốn chân thành muốn chuộc lỗi, và sau cùng phải bày tỏ sự cương quyết làm việc tốt và hướng thiện, nghĩa là theo hướng ngược lại với tội lỗi đã gây ra. Như vậy, quả báo sẽ dần dần giảm nhẹ cho đến tiêu tan, và bệnh sẽ thuyên giảm.

Nếu chúng ta chấp nhận thuyết luân hồi thì ta phải nhìn nhận rằng nhân loại chưa có được sự tiến hóa cao về phương diện tâm linh, vì thế mà con người còn phải chịu những quả báo xấu trong nhiều kiếp sống tương lai. Nhưng ta không nên quá băn khoăn lo sợ vì điều đó. Tục ngữ phương Tây có câu: “Mỗi ngày chỉ chịu đựng vừa đủ sự khổ nhọc của nó!” (A chaque jour suffit sa peine.) Câu này ngụ ý là ta nên sống mỗi ngày một cách bình tĩnh, chấp nhận mọi sự việc mà không cần phải băn khoăn lo lắng. Chẳng những là mỗi ngày mà mỗi kiếp sống cũng vậy; dầu cho ta có bị những khó khăn đau khổ như thế nào, ta cũng phải sống trọn đời sống của mình với một niềm tin tưởng chắc chắn rằng những gì xảy đến cho ta là rất công bình, và ta luôn có đủ sức chịu đựng mọi điều xảy đến. Không gì có thể xem là quá sức chịu đựng của ta trong đời sống cả.

Hơn nữa, dầu cho ta có tin vào luật nhân quả hay không, ta cũng phải thừa nhận rằng tương lai là một cái gì mà ta không thể biết được một cách chắc chắn. Và nếu ta tin rằng những tai họa xảy đến cho ta là do lẽ nhân quả báo ứng chứ không phải do sự ngẫu nhiên tình cờ hay ý muốn của một đấng toàn năng, thì những nỗi băn khoăn sợ sệt của ta sẽ tự nó tan biến, vì lý do giản dị là quả báo luôn xảy đến cho ta theo một định luật công bằng tuyệt đối.

Con người thường hay sợ sệt những tai họa sẽ đến, nhưng nếu biết rằng sự việc luôn xảy đến một cách công bằng thì ta sẽ chẳng có gì phải lo sợ hay trốn tránh. Ngược lại, mỗi tai họa còn có thể là một cơ hội để mang đến cho ta một bài học hay và mở rộng tầm kiến thức cũng như rèn luyệntu dưỡng tinh thần. Như vậy, rõ ràng đó không phải là một điều đáng sợ.

Một người lương thiện nếu biết mình mắc nợ thì phải cố gắng lo việc trả nợ; anh ta sẽ làm việc một cách siêng năng chăm chỉ để có thể trả hết món nợ vào đúng kỳ hạn, nhưng hoàn toàn không cần thiết phải lo lắng sợ sệt về việc ngày trả nợ sẽ đến. Người ấy chỉ cần đem hết tinh thần, sức lực, cố gắng làm việc để có thể trả dứt nợ nần, vì đó mới là sự nỗ lực đúng hướng nhất.

Vì tầm ý thức của chúng tagiới hạn nên chúng ta không thể biết được rằng mình đã mắc phải bao nhiêu món nợ quả báo trong những tiền kiếp thuộc về quá khứ xa xăm. Nhưng dù vậy, chúng ta cần phảithái độ thẳng thắn của một người lương thiện, chấp nhận những món nợ của ta với một thiện chíchân thành muốn trả nợ. Sự chấp nhận luật nhân quảtin tưởng vào sự công bằng tuyệt đối của nó chính là thái độ tích cực nhất của chúng ta đối với mọi quả báo xảy đến.

Khi có thể đặt niềm tin vào sự tác động công bằng của luật nhân quả thì chắc chắn ta không thấy có bất cứ điều gì cần phải sợ sệt cả. Những ai gieo gió sẽ phải gặt bão, và nếu nỗ lực làm thiện thì sẽ được hưởng những quả báo tốt đẹp. Chỉ có thế thôi!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14875)
Ngài Nam Tuyền nói: “Tâm bình thường là đạo.” Chư vị Tổ sư dùng đến vô số phương tiện cũng không ngoài việc dẫn dắt người học đạt đến tâm bình thường này.
(Xem: 17806)
Các phần lý thuyếtthực hành chứa đựng trong sách này có tác dụng dẫn dắt tâm chúng ta đến chỗ thấu hiểu sâu xa hơn về sự sống và chết, về vô thường và khổ đau.
(Xem: 18221)
Với người chịu dày công tìm hiểu, đạo lý không có gì là bí ẩn; với người biết suy xét, hiểu được đạo lý không phải là khó khăn.
(Xem: 14999)
Khi chúng tôi mới gặp nhau, tôi là một thành viên tích cực của Câu lạc bộ Lotos, nhưng từ khi bắt tay vào việc soạn sách “Vén màn Isis” tôi đã chấm dứt hẳn mọi liên hệ với các hội hè đình đám...
(Xem: 13196)
Quyển hồi ký này của tu sĩ Yogananda có một giá trị độc đáo vì nó là một trong những tác phẩm nói về các bậc thánh nhân, hiền triết Ấn Độ.
(Xem: 21169)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 32593)
Cho đến nay Phật giáo đã tồn tại hơn 2.500 năm, và trong suốt thời kỳ này, Phật giáo đã trải qua những thay đổi sâu xa và cơ bản. Để thuận tiện trong việc xem xét, lịch sử Phật giáo có thể được tạm chia thành bốn thời kỳ.
(Xem: 15322)
Những ảnh hưởng tích cực của thiền đối với cuộc sống con người không hề bị giới hạn bởi bất cứ yếu tố khác biệt nào, cho dù đó là chủng tộc, giai cấp, tuổi tác hay giới tính...
(Xem: 12350)
Trong chuyến du hành sang Ai Cập, tác giả đã dày công thâu thập được nhiều kinh nghiệm huyền linh và thần bí. Ngoài ra tác giả còn trình bày những khía cạnh bí ẩn khác của xứ Ai Cập...
(Xem: 12837)
Trải qua dòng lịch sử, nhân loại đã thực hiện được nhiều kỳ công vĩ đại, nhưng con người vẫn phải bóp trán suy nghĩ để tìm hiểu ý nghĩanguyên nhân của sự đau khổ...
(Xem: 27539)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 12138)
Đã biết nhân quả theo nhau như bóng với hình, nên kể từ đây chúng ta hãy phát tâm dũng mãnh làm mới lại mình, sám hối, ăn năn những sai lầm đã phạm trước kia.
(Xem: 34969)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 17753)
Tập truyện này kể lại nhiều câu chuyện mang tính giáo dục cao, có thể giúp dạy bảo, khuyên răn nhằm bồi dưỡng nhân cách, đưa con người hướng đến Chân, Thiện, Mỹ...
(Xem: 11828)
Mùa xuân đồng nghĩa với mùa hoa có từ khi thiên địa mới mở. Nó có thật mà như mơ, trong trẻo thanh cao, vô tư bên cạnh cõi Ta-bà phiền não đầy những giá trị giả.
(Xem: 12651)
Trước cuộc du hành đầu tiên của tôi, phương Đông đã xâm chiếm tâm hồn tôi với một sự hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ. Về sau, tôi quay sang việc khảo cứu các kinh điển của Á châu...
(Xem: 14571)
Trong sách này, tác giả đã diễn tả cả một nền văn minh truyền thống dưới cặp mắt của một người bản xứ nhìn vào mọi khía cạnh sinh hoạt, vật chấttâm linh, của đất nước Tây Tạng...
(Xem: 32476)
"BÀI HỌC NGÀN VÀNG" là câu chuyện đã có từ xưa, một câu chuyện vô cùng thâm thúy và bổ ích cho thế đạo nhân tâm.
(Xem: 19462)
Tu Là Chuyển Nghiệp - Tuyển tập 7 bài viết về "nghiệp" trong Phật giáo - HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12972)
Tập sách này là một sự tập hợp các bài biên khảo đã được đăng trong các tạp chí Phật giáo. Các bài: Triết lý quanh đèn, Triết lý chiếc nôi, Cái nhìn...
(Xem: 14088)
Nay nhìn lại, tôi nhận ra nếp sống nhà chùa là nếp sống tình thươngtrí tuệ. Người trong thơ đã mở nguồn cho tôi vào đạo và mở nguồn cảm xúc cho tôi bây giờ.
(Xem: 14272)
Chỉ khi nào làm mọi việc mà không thấy có mình làm, không thấy có chúng sinh được cứu độ, không thấy mình và chúng sinh có sự khác biệt đó mới là vô ngã.
(Xem: 15318)
Anh đã từng xót thương, như tự xót thương anh thuở nào thơ dại, khi bắt gặp trên đường những nét nhăn mà móng vuốt của cuộc đời đã cày trên trán ai như trán em bây giờ...
(Xem: 14145)
...ý nghĩa của đời sống phải được tìm thấy ngay trong những giây phút quý giá mà ta đang còn được sống. Đó là niềm hạnh phúc khi chúng ta được thương yêu...
(Xem: 14136)
Những gì sẽ được trình bày trong tập sách mỏng này thật ra không có gì mới lạ, mà chính là những gì đã từng được đức Phật Thích-ca Mâu-ni giảng dạy cách đây hơn 25 thế kỷ!
(Xem: 11959)
Yêu thương là cội nguồn của hạnh phúc, thậm chí trong một chừng mực nào đó còn có thể nói rằng yêu thương chính là hạnh phúc, như hai mặt của một vấn đề không chia tách.
(Xem: 53184)
Thiền như một dòng suối mát, mà mỗi chúng ta đều là những người đang mang trong mình cơn khát cháy bỏng tự ngàn đời.
(Xem: 11666)
Người viết cũng tin tưởng là tất cả chúng ta đều có thể thực hiện việc phóng sinh mỗi ngày trong cuộc sống. Và điều đó có thể mang lại những kết quả rất kỳ diệu...
(Xem: 13927)
Tập sách vừa là một trang đạo, vừa là một trang đời đẫm đầy mọi thử thách, chông gai mà Thầy đã từng trải, đã đi qua trong suốt cuộc hành trình của tháng năm tuổi trẻ.
(Xem: 13822)
Mỗi người chúng ta thường chỉ nhận biết được một số những khía cạnh nhất định nào đó mà chúng ta cho là khổ đau, và vẫn không ngừng đắm say trong vô số những niềm vui nhỏ nhặt...
(Xem: 20696)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14313)
Quyển sách này là sáu nói chuyện Jiddu Krishnamurti trình bày tại những Trường đại học Ấn độ và những Học viện Công Nghệ Ấn độ giữa năm 1969 và năm 1984.
(Xem: 13435)
Thật là một nghịch lý khi hành tinh này ngày càng có đông người sinh sống hơn nhưng mối quan hệ giữa người với người lại ngày càng trở nên xa cách, nhợt nhạt hơn.
(Xem: 13619)
Phật Giáo hiện hữu trên thế gian nầy từ vô lượng kiếp và Phật Giáo đã được hình thành bằng hình thức khế lý khế cơ qua hơn 2.500 năm lịch sử trên quả địa cầu này...
(Xem: 34181)
Chúng ta đang rất cần chú ý đến những mối quan hệ gia đình trong môi trường mới, nhằm có thể duy trì và phát triển được hạnh phúc ngay cả trong những điều kiện khó khăn nhất mà cuộc sống đòi hỏi.
(Xem: 16211)
"Phật Pháp Cho Sinh viên" là kết quả của hai buổi nói chuyện đạo của Ajahn Buddhadàsa vào tháng Giêng năm 1966 với các sinh viên viện Ðại học Thammasat ở Bangkok.
(Xem: 14073)
Quyển sách "Nguồn an lạc" này, được biên tập từ các bài giảng phổ thông của Hòa thượng Viện trưởng tại Thiền viện Trúc Lâm và các Thiền viện trực thuộc, cũng như đạo tràng các nơi.
(Xem: 14204)
Bóng trúc bên thềm là tập hợp những trang tùy bút mà tôi đã trải lòng trong những năm gần đây. Chung quy không ngoài những chuyện thường ngày của cuộc sống...
(Xem: 13568)
Yêu thương và được yêu thươnghai mặt không tách rời nhau của cùng một vấn đề. Khi bạn yêu thương, bạn cũng đồng thời nhận được sự thương yêu.
(Xem: 15922)
Phật pháp quảng đại vô biên, bình đẳng viên dung, có tác dụng thông trên suốt dưới. Phương thuốc ấy là: Người người phải bình tâm tỉnh trí, an lạc không ở bên ngoài...
(Xem: 13517)
Phật học và Y học là một trong những loạt bài nói chuyện cùng các giáo sư và bác sĩ của bác sĩ Quách Huệ Trân tại Học Viện Y Dược Trung Quốc, được cư sĩ Lý Nghi Linh ghi lại thành sách.
(Xem: 22984)
ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI, cống hiến con người một phương châm giải thoát chân thật, đem lại sự ích lợi cho mình, cho người và kiến tạo một nền tảng hòa bình vĩnh viễn...
(Xem: 27748)
Khi đối diện với việc cầu nguyện, chúng ta thường có nhiều nghi vấn. Nghi vấn đầu tiên là cầu nguyện có kết quả không?
(Xem: 13908)
Đối với Phật tử Việt Nam chúng ta nhất là những người theo truyền thống đại thừa, danh từ Phật hay “Bụt” đã trở thành một khái niệm vừa thiêng liêng vừa gần gũi.
(Xem: 24983)
Thuở xưa, khi Đức Phật thuyết giảng cho một vị nào đó, một cư sĩ hay một bậc xuất gia, chỉ với một thời pháp rất ngắn, thậm chí đôi khi chỉ vài câu kệ, mà vị đó, hoặc là đắc pháp nhãn...
(Xem: 13954)
Đức Phật dạy chúng ta phải giải quyết những vấn đề trong cuộc sống qua sự hiểu biết rõ ràng về bốn sự thật trong đời sống: Khổ, nguyên nhân của khổ, làm thế nào diệt khổcách sống an vui hạnh phúc...
(Xem: 31337)
Ít người muốn đối diện với sự thật là các ý nghĩ và cảm nhận của họ đều vô thường. Tuy nhiên, một khi đã biết được như thế rồi thì ít ai có thể phủ nhận sức mạnh của sự thật này...
(Xem: 13867)
Được thân người và gặp được Phật Pháp mà để cho thời gian luống qua vô ích thì quả là uổng cho một kiếp người. Xin hãy lắng nghe và phụng hành theo những lời khuyên dạy của Đức Từ Phụ...
(Xem: 15564)
Hỡi những ai thực tâm muốn giác ngộ để tu trì giải thoát, hãy vững niềm tin: Phật là Phật đã thành, chúng ta là Phật sẽ thành. Tin như vậy sẽ đưa ta đến chỗ có tâm niệm chân chánh...
(Xem: 14980)
Tập sách bao gồm những bài thuyết pháp thật phong phúthiết thực của Giảng sư LOKANATHA gốc người Ý, nguyên là tín đồ Thiên Chúa Giáo La Mã, bỗng giác ngộ quay về quy ngưỡng Phật Ðạo...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant