- Chương 1: Một triển vọng đáng mừng
- Chương 2: Dùng thần nhãn để khám bệnh
- Chương 3: Những bí ẩn của đời người
- Chương 4: Vài loại quả báo về thể xác
- Chương 5: Quả báo của sự chế nhạo
- Chương 6: Vài suy nghĩ về luật nhân quả
- Chương 7: Quả báo không tức thì
- Chương 8: Quả báo đối với sức khỏe
- Chương 9: Kích thước mới của khoa tâm lý
- Chương 10: Những hạng người khác nhau
- Chương 11: Quả báo tâm lý
- Chương 12: Nguyên nhân của những trạng thái tâm lý lạ lùng
- Chương 13: Quả báo đối với hôn nhân
- Chương 14: Những thiếu phụ cô đơn
- Chương 15: Thắc mắc về vấn đề hôn nhân
- Chương 16: Ngoại tình và ly dị
- Chương 17: Nghiệp quả giữa cha mẹ và con cái
- Chương 18: Vài loại nghiệp quả gia đình
- Chương 19: Nhân quả đối với nghề nghiệp
- Chương 20: Phương châm trong việc chọn nghề
- Chương 21: Bí quyết đào tạo khả năng
- Chương 22: Tiềm năng của con người
- Chương 23: Những khía cạnh của luật nhân quả
- Chương 24: Một phương châm xử thế
- Chương 25: Kết luận
Nguyễn Hữu Kiệt dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
CHƯƠNG 1: MỘT TRIỂN VỌNG ĐÁNG MỪNG
Một nhà hiền triết đã mô tả về ý
nghĩa của một đời người chỉ trong một câu ngắn gọn: “Con người sinh ra chỉ để
đau khổ và cuối cùng chết đi.”
Nói về sự đau khổ của cuộc đời, ngày nay hẳn không còn ai phải hoài nghi hay
tranh cãi. Người ta thường chỉ không đồng ý với nhau trong việc nhận định về
những đau khổ đó và nên đối phó với chúng như thế nào mà thôi.
Cách đây hơn 25 thế kỷ, người đầu tiên đã nhận thức và mô tả hết sức cụ thể về
những đau khổ của đời người là một người Ấn Độ. Ngài đã chỉ rõ mọi nguyên nhân
cội nguồn của đau khổ và vạch ra con đường thoát khổ, được hàng triệu triệu
người trên khắp thế giới noi theo từ đó đến nay và mỗi người đều đạt được những
sự lợi ích tinh thần nhất định, từ những phút giây thanh thản trong đời sống
thường nhật cho đến những trạng thái giải thoát toàn diện thoát khỏi mọi khổ
đau.
Lịch sử ghi nhận sự kiện đản sinh của bậc vĩ nhân đó với tên gọi Thái Tử Sĩ Đạt
Ta, và về sau được tôn xưng là Đức Phật, với ý nghĩa là bậc Toàn Giác.
Phụ vương của Sĩ Đạt Ta là một vị vua có thế lực lớn ở miền Bắc Ấn Độ thời đó.
Người quyết định truyền ngôi cho thái tử nên đã giữ chặt thái tử trong cung,
không cho thái tử nhìn thấy những cảnh lầm than, đau khổ của người đời.
Thái Tử sống từ nhỏ trong cung cấm. Đến lúc trưởng thành, vua cha cưới cho thái
tử một vị công chúa nhan sắc tuyệt trần. Từ nhỏ đến lớn, thái tử chưa hề bước
chân ra khỏi bốn vách thành bao bọc quanh hoàng cung. Khi thái tử có được một
hoàng nam, người thấy nhàm chán cảnh cung điện và muốn biết có những gì ở cuộc
sống bên ngoài cung điện. Người mới xin phép vua cha xuất thành du ngoạn. Lần
đầu tiên thái tử được nhìn thấy cảnh thành phố tấp nập, dân cư đông đảo và đời
sống thực tế bên ngoài cung điện.
Sau khi du ngoạn bên ngoài bốn cửa thành, thái tử nhìn thấy những cảnh tượng
làm cho người chú ý. Đó là cảnh một người già, một người bệnh tật và một xác
chết. Thái tử lần đầu tiên thấy được những cảnh này, vô cùng xúc động, bèn hỏi
tên đánh xe đi theo ngài: “Tại sao lại có những cảnh đau khổ như thế?”
Khi được biết rằng đó là những điều vẫn xảy ra với tất cả mọi người, không ai
tránh khỏi, Thái tử vô cùng buồn bực, đến nỗi Ngài không còn ham thích gì cuộc
sống xa hoa.
Khi trở về cung, ngài bắt đầu nuôi ý định xuất ly, từ bỏ tất cả mọi sản nghiệp,
gia đình vợ con để xuất gia tầm đạo, tìm một phương cách để cứu vớt nhân loại
và chúng sinh thoát khỏi sự lầm than đau khổ.
Ý nguyện của ngài không được sự chuẩn thuận của vua cha. Vì thế, ngài đã phải
đang đêm vượt thành để ra đi tầm đạo. Sau nhiều năm khổ công tìm kiếm và tu
tập, tham thiền quán tưởng, ngài đạt được trạng thái giác ngộ, trở thành một
bậc toàn trí toàn giác, xứng đáng với danh hiệu Phật-đà, nghĩa là Bậc tỉnh
giác. Sau đó ngài mới truyền dạy đạo giải thoát cho thế gian, chỉ cho tất cả
mọi người thấy được con đường thoát khổ.
Chúng ta là những người trần gian phàm tục, không ai có thể làm giống như đức
Phật Thích Ca, nghĩa là nhất thời dứt bỏ tất cả sự giàu sang, quyền thế, danh
vọng, tình yêu và hạnh phúc gia đình để theo đuổi một mục đích quá cao xa như
việc đi tìm chân lý và tìm hiểu ý nghĩa chân thật nhất của cuộc đời! Tuy nhiên,
mỗi người trong chúng ta đều phải trải qua những hình thức khổ đau nhất định
trong cuộc đời mình và hẳn đã có lúc phải tự hỏi:
– Tại sao con người phải chịu đau khổ? Và ta có thể làm gì để thoát khổ?
Cách giải thích về những “tội lỗi bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy ngay từ
lúc sinh ra dường như không thuyết phục đối với nhiều người. Họ thấy không có
lý do gì để người ta phải chịu đựng khổ đau chỉ vì những điều mà họ hoàn toàn
không tự mình thực hiện! Nhưng nếu cho rằng có những điều chính ta đã thực hiện
trong quá khứ để dẫn đến sự khổ hiện nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ
vì si mê thì nhiều người cũng không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự
chứng minh cụ thể nào cả!
Những nhà văn có óc không tưởng đã phác họa về một thời kỳ trong tương lai mà
bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra sẽ có hai điều không còn nữa, đó là bệnh tật và
già yếu. Nhưng mặc dầu khoa học hiện đại đã có rất nhiều những phát minh đột
phá, người ta vẫn chưa bao giờ chạm tới ngưỡng cửa của sự chấm dứt hoàn toàn
bệnh tật hoặc làm cho con người không còn chịu tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi
tìm được phương pháp điều trị cho một căn bệnh nan y nào đó, thì dường như là
ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh
trước đó! Và như thế lúc nào con người cũng phải luôn đứng trước những thách
thức không thể vượt qua của bệnh tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng
không thấy có triển vọng gì tốt đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng
tìm ra một phương thuốc nào đó làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm
mười năm tuổi cũng đã là phi thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải lão
hoàn đồng”!
Nhưng cho dù có vượt qua được sự bệnh tật và già yếu, con người hầu như cũng
không thể tìm ra phương pháp giải quyết vấn đề mà con người vẫn xem là kẻ thù
lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới giữa sống và chết bao giờ cũng hết sức mong
manh, và con người chưa hiểu biết được bao nhiêu về vấn đề này nên có thể nói
là hoàn toàn bất lực trong việc tác động vào nó. Cho dù người ta có thể làm ra
những cỗ máy khổng lồ đủ sức san bằng cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không
thấy có chút hy vọng gì có thể làm cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể
sống lại dù chỉ trong chốc lát!
Trong khi chờ đợi một cách vô vọng những tiến bộ của con người theo hướng này,
và trong khi sự cải tạo thế giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn còn chưa đem
đến cho nhân loại sức khỏe, sự anh ổn và hạnh phúc, thì chúng ta vẫn luôn phải
đương đầu với muôn ngàn sự bấp bênh trong đời sống, những mối nguy cơ, tai họa
và đau khổ luôn rập rình đe dọa sự hạnh phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta!
Những tai họa thiên nhiên như hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất... kèm
theo với những cuộc chiến tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi
đời sống an ổn của bất cứ ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự
tác động xấu từ bên ngoài, còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội
tâm, thì con người lại luôn sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như lòng
ích kỷ, ganh ghét, tham lam, thù hận, si mê .v..v... đều là những nguồn gốc
sinh ra sự đau khổ cho chính bản thân mỗi người và cho những người chung quanh.
Trong những giây phút vui tươi ít ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy trong
lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc réo rắt du dương, hay khi nhìn thấy cảnh sắc
muôn màu của lúc bình minh, chúng ta thường cảm thấy rằng trong vũ trụ tự nhiên
hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn giấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm nào đó, khác
hơn là những nỗi khổ đau mà ta phải thường xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi
chúng ta quay trở về cõi đời thực tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất
vọng não nề cay đắng, thì chúng ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:
– Ý nghĩa và mục đích của cuộc đời này là gì?
– Ta là ai?
– Tại sao ta sinh ra ở đây?
– Rồi ta sẽ đi về đâu?
– Tại sao ta phải chịu đau khổ?
– Có những mối quan hệ gì giữa ta và những người khác quanh ta?
– Giữa con người với cái sức mạnh vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên bao
phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ như thế nào chăng?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá khứ xa
xăm. Nhưng ngày nào người ta vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những
giải pháp tạm thời để làm dịu bớt sự đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất
hay tinh thần, đều chỉ có ý nghĩa vô cùng hạn chế và không thể giúp cho ta có
được hạnh phúc thực sự. Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn
chưa được giải quyết, thì có thể nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải
quyết được gì cả, vì tất cả mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng
cũng không có ý nghĩa gì khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ
đau. Ngày nào mà trên thế gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang
quằn quại trong đau khổ mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem
như người ta chưa thực sự giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của
nhân loại về cuộc đời vẫn còn là thiếu sót, bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất, loài người đã từng nêu ra những câu hỏi trên. Và
càng suy ngẫm thì họ càng cảm thấy rằng những sự tranh đấu vất vả và đau khổ
của con người không hẳn là vô ích và vô nghĩa như người ta có thể lầm tưởng.
Bởi vì, trong khi những ý nghĩa vật chất nhìn thấy được là hoàn toàn không có
giá trị chân thật, thì sự đào luyện và tiến hóa về tinh thần nhờ trải qua những
kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn là một điều có thật. Từ đó, người ta cảm thấy nhất
định phải một sự liên quan giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh
thần phi vật thể. Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt
đầu tin vào sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng
thẳm hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ...
Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài cầm thú,
đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những đau khổ cùng với
thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một hình thức phi vật chất và
tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù những niềm tin như thế hầu hết
đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự xuất phát từ những cảm nhận rất thật của
con người trong suốt quá trình chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin
này hầu như đã đồng thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự
khác biệt về chủng tộc, địa lý...
Khi sự suy nghiệm của con người về vấn đề này đã trải qua được những quãng thời
gian rất dài thì những lý thuyết khác nhau dần dần được phát sinh. Hoặc có
người cho rằng ngoài cõi trần gian đau khổ này mà loài người đang sống trong sự
hỗn tạp pha lẫn cả điều lành và điều dữ, điều thiện và điều ác, hẳn phải còn có
một cảnh giới vô hình nào đó để là nơi thưởng phạt công minh đối với những hành
động thiện ác của con người ở thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta
đã tin rằng có những cảnh thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng,
hình dung khác nhau ở từng nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực
khác nhau, hoặc miêu tả những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng tựu
trung vẫn giống nhau ở điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng tuyệt đối
của sự phán xét vô hình đó.
Những điều tin tưởng và giải thích như trên đã từng được nêu ra rất nhiều. Có
những cách giải thích hãy còn giản dị thô sơ, chất phác, nhưng cũng có những
cách giải thích tinh tế, sâu sắc hơn, và cũng có những cách giải thích được mọi
người cho là hợp lý, thuyết phục. Và chính nhờ sự tin tưởng vào những giải
thích được chấp nhận đó mà con người vẫn có thể tiếp tục sống và đương đầu với
những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc đời, vì sự thật là nếu không có những
niềm tin đó thì cho dù con người có can đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua
được những cơn khủng hoảng. Có người tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin
tưởng ở Đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn
giáo nào khác nữa...
Có nhiều người tin rằng đời người có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó
là ý nghĩa của sự sống. Một số người khác không cần bận tâm tìm biết lý do gì
cả, mà chỉ tận hưởng sự vui sướng, khoái lạc trong hiện tại. Đối với những
người sinh trưởng trong nền giáo dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải
thích về đời người và những sự đau khổ của cuộc đời thường là như thế này:
– Con người có một linh hồn và linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử
thách đưa đến cho chúng ta, thiên đàng hay địa ngục là những điều thưởng phạt
tùy theo cách hành động và cư xử của chúng ta trên thế gian.
Những người chấp nhận sự giải thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng chứng;
vì đó chỉ là sự giải thích mà họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các giáo sĩ; và
chính những vị này cũng đã hấp thụ từ những bậc phụ huynh và các giáo sĩ trong
thế hệ của họ, rồi cứ như thế đi ngược dòng thời gian cho đến khi người ta tìm
thấy nguyên ủy mọi sự nằm trong một quyển sách gọi là Kinh Thánh (Bible), và
một người đã thiết lập, củng cố niềm tin ấy tên là Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức Jesus,
cho dù là một con người hay thực sự là con của Chúa Trời, vẫn phải xem là một
nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể từ thời kỳ Phục Hưng (Renaissance) cho đến
nay, người Tây phương ngày càng trở nên hoài nghi đối với những tín điều dựa
trên niềm tin không được xác tín, dẫu cho đó là tin vào một quyển sách hay một
con người. Bất cứ tín điều nào không thể chứng minh được bằng các phương tiện
khoa học đều gây ra một sự hoài nghi mỗi lúc một tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolemy (Ptolémée)
[1] nói rằng mặt trời
xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh Gia Tô đã chấp nhận và truyền
dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic[2] đã phát minh ra những
khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại, rằng chính trái đất xoay
chung quanh mặt trời!
Triết gia Aristote nói rằng nếu người ta làm rơi cùng lúc hai vật có trọng
lượng khác nhau từ trên cao, vật nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, và Hội Thánh
đã hoàn toàn chấp nhận nền triết học cùng sự phát minh khoa học của Aristote.
Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise,
Galileo
[3]
đã chứng minh rằng
hai vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc nếu chúng có
thể tích khác biệt tương ứng.
Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng rộng; tuy
nhiên Christophe Colomb và Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm khác nữa của thế
kỷ XV đã làm đảo ngược giả thuyết trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt
biển, khởi hành từ một điểm và đi thẳng theo hướng đông nhưng cuối cùng lại đến
được điểm khởi đầu, chứng tỏ rằng họ đã đi theo một đường tròn.
Những sự chứng minh trên đây cùng nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần chứng tỏ
rằng những giả thuyết dựa trên niềm tin vô căn cứ từ thời xưa không chắc gì là
đúng. Do đó đã nảy sinh quan niệm khoa học và óc hoài nghi phán đoán của người
thời nay.
Tuy nhiên, có một thực tế là trong sự tranh đấu để sống còn con người không thể
tránh khỏi sự đau khổ. Sự đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do
nào để giải thích ngoài việc phải thừa nhận là nó không có mục đích gì cả! Lẽ
nào người ta lại không thể có một cuộc sống không phải chịu đau khổ? Và những
gì ta biết về sự chết cho đến nay vẫn chỉ là “một sự tan rã của những phân tử
hóa học vật chất”, ngoài ra ta không còn biết gì hơn nữa.
Như vậy, với khuynh hướng khoa học, người ta đã thay thế niềm tin vào Kinh
Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm tin vào năm giác quan và các thiết bị khoa
học!
Với những ống kính hiển vi, viễn vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những
phát minh tối tân khác, khoa học đã nới rộng tầm hoạt động của năm giác quan
đến mức vượt xa trước đây, nhưng người ta vẫn dựa vào sự nhận xét bằng năm giác
quan, tức thị giác, thính giác, vị giác, khứu giác và xúc giác như là nền tảng
của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm gần đây, người ta đã trở nên phức tạp hơn và
hoài nghi hơn đối với những điều họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu
biết. Những khí cụ khoa học mà người ta phát minh ra đã chỉ cho họ thấy một
cách mỉa mai rằng những giác quan của con người thật vô cùng thiếu sót, bất
toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết vũ trụ một cách thật sự đầy đủ, chính
xác. Những luồng sóng Hertz,
[4] chất phóng quang,
nguyên tử lực... đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học của thời buổi
hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng ta có những
luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những phân tử nhỏ bé nhất
của vật chất đều là những kho chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng một sức
mạnh kinh khủng mà con người trước đây không thể tưởng tượng nổi.
Chúng ta biết rằng những giác quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để tiếp xúc
với ngoại giới, cũng ví như những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé nhỏ là xác thân
của chúng ta. Sự nhạy cảm của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta
tiếp nhận chỉ có một phần nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ
cảm của lỗ tai ta đối với âm thanh chỉ giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng
nhỏ hẹp trong biển âm thanh rộng lớn của vũ trụ. Nhiều loại thú cầm, chim muông,
côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài
người; bởi đó vũ trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không
nhận biết hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự
hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số loài
cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về vũ trụ bên
ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương tiện khoa học mà
chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, nên con người không thể
tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong vũ trụ mênh mông rộng lớn.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết của
giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn
mức bình thường một phần nào thôi. Phải chăng khi ấy ta sẽ nhận biết được nhiều
sự vật mà trước kia ta không hề nghe, không hề thấy?
Hoặc nếu có một người nào đó bẩm sinh đã có được những giác quan phi thường,
với một tầm nhận biết rộng lớn hơn, phải chăng điều tất nhiên là người này sẽ
có thể nghe thấy, nhận biết những sự vật mà chúng ta không thấy, không nghe?
Với một mức độ khác biệt nào đó, phải chăng người ấy có thể nghe, thấy và nhận
biết vượt qua cả những khoảng không gian xa xôi, tương tự như máy vô tuyến
truyền thanh hoặc truyền hình?
Đứng trước thế giới mênh mông vô tận với biết bao điều còn bí ẩn mà những khí
cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai mươi đã hé mở cho chúng ta nhận biết phần
nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận khả năng xảy ra những điều nói trên. Và
nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người, chúng ta sẽ thấy đã từng có nhiều
trường hợp đặc biệt được ghi chép về những khả năng nhận biết phi thường của
một số người. Một trong số những người đó là ông Swedenborg,
[5] nhà bác học trứ danh
của thế kỷ 18. Ông này có được một năng lực nhận biết rất phi thường. Người ta
đều biết rõ một chuyện về năng lực phi thường của ông, vì chuyện này được rất
nhiều người chứng kiến, trong số đó có cả nhà triết học Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng sáu giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài
người bạn ở thành phố Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói rằng một cơn
hỏa hoạn lớn đang xảy ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ năm trăm cây số.
Sau đó một lát, ông tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người
láng giềng và hăm dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến tám giờ, cũng chiều
hôm đó, ông cho biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập
tắt ở khoảng cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông Swedenborg đã được xác nhận bằng những bài
tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc phát đúng vào lúc ông giật mình và có cảm giác
đầu tiên về cơn tai biến này!
Đây không phải là trường hợp duy nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng
ghi chép hàng trăm trường hợp tương tự, trong số đó có những người nổi tiếng
như Mark Twain, Abraham Lincoln, St. Saens.v.v... Trong vài trường hợp, chính
những người thân quyến của họ đã có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ
lùng về những sự việc xảy ra ở cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng
hay nhiều năm về sau, với đầy đủ chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên
một thứ giác quan mạnh mẽ phi thường và liên tục. Nhưng trong phần nhiều những
trường hợp khác, năng khiếu đó dường như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định
khi đương sự tạm thời rơi vào một trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh hướng đón nhận những sự việc kể trên với một
thái độ hoài nghi và thậm chí với ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay
đã đến lúc mà người ta không thể nhìn vào những hiện tượng đó một cách khinh rẻ
như thế được nữa. Đối với những người có một tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm
hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối với những người thông hiểu các trào lưu khoa
học và những nhu cầu của thế hệ, thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả
năng lạ lùng huyền bí của con người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan
trọng nhất định.
Trong số những nhà thông thái có tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận rằng những
hiện tượng thần bí, siêu nhiên đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học,
cũng như đã ra công sưu tầm về những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine,
[6] giáo sư trường Đại
Học Duke. Từ năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự đã nghiên cứu sâu
về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn trong con người.
Bằng những cuộc thí nghiệm được kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một phương pháp
khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí
nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan một cách
phi thường. Người ta có thể tìm thấy những chi tiết về phương pháp thí nghiệm
và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ Rhine trong quyển sách nhan đề “The Reach
of the Mind” (Tầm hoạt động của trí não” do chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa
Kỳ.
Những nhà sưu tầm khác như Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với
những phương pháp thí nghiệm tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như
của tiến sĩ J. B. Rhine.
Những bằng chứng khoa học hiển nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về tính chất
có thật của những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn của con
người. Tuy thế, cho đến nay khoa học chỉ mới chứng minh được rằng hiện tượng
thần nhãn là một điều có thật, còn việc nó hoạt động ra sao và phát sinh từ
những yếu tố nào thì người ta hoàn toàn không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn
chưa thể vận dụng được năng khiếu đó trên địa hạt thực tế.
Thử tưởng tượng, nếu con người có thể tạo ra được cái năng khiếu phi thường đó,
thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được những gì xảy ra trong không gian mà không cần
sử dụng đến cặp mắt thường. Khi đó, con người sẽ có được một phương thức mới
cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những điều hiểu biết về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn
ngoan khéo léo đã giúp ta chinh phục một phần nào không gian và tác động rất
nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng dù có được sự khôn ngoan khéo léo đó, xét
cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dầu có được
những thành công nhất định trên địa hạt vật chất, con người vẫn còn phải bất
lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dầu đã thu hoạch được những kết quả nhất định
trên các lãnh vực nghệ thuật, văn hóa và khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý
nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà mỗi người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra
cho đến lúc từ giã cõi đời.
Trong thời gian qua, con người đã tìm ra những bí mật về năng lượng nguyên tử,
điều đó là một bước đột phá trong việc kiểm soát thế giới vật chất. Nhưng có lẽ
phải nhờ vào chính những sự khám phá gần đây về khả năng cảm xúc bằng giác quan
siêu đẳng của con người và những mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức,
con người mới có thể tiến sâu hơn nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi, có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu
giải đáp thỏa đáng cho những điều bí ẩn quan trọng của đời người, chẳng hạn như
những lý do vì sao con người sinh ra ở thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự
đau khổ mà con người phải chịu đựng là gì.