Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sách Văn Học Phật Giáo
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

22. Giã từ Trung Quốc

11 Tháng Hai 201200:00(Xem: 10349)
22. Giã từ Trung Quốc
MÙI HƯƠNG TRẦM
Nguyễn Tường Bách
(Ký Sự Du Hành Tại Ấn Độ, Trung Quốc, Tây Tạng)

PHẦN THỨ BA
TRUNG QUỐC, XỨ SỞ CỦA BỒ-TÁT (tt)

GIÃ TỪ TRUNG QUỐC 

Trung Quốc với một cõi đất mênh mông và một Hán tộc lâu đời hiển nhiên là một nước lớn trên thế giới. Mặc dù còn biết rất ít về Trung Quốclịch sử nước này nhưng tôi dám nói đây phải là một dân tộc với một nền văn minh cổ nhất và một nền học thuật sâu sắc nhất của loài người. Trước công nguyên hàng trăm năm, lúc con người còn mơ ngủ thì người Trung Quốc đã bắt đầu nghĩ đến việc trị thủy, bắt đầu xây những công trình vĩ đại mà ngày nay không ai dám nghĩ có thể hoàn thành. Đó cũng là thời kỳ mà nước Trung Quốc đã được thu về một mối với hàng trăm triệu dân, từ thời đó ý thức thống nhất của họ luôn luôn ngự trị trong những đầu óc tầm cỡ. 

Trong lịch sử dài của Trung Quốc, những cuộc nội chiến của họ thường được chấm dứt bởi những nhân vật kiệt xuất và sau đó thường là một thời kỳ phát triển rực rỡ về văn hóa. Đời nhà Đường, nhà Tống, lúc châu Âu còn nằm trong giấc ngủ dài của thời Trung Cổ thì nền văn hóa nghệ thuật của Trung Quốc đã lên tới tột đỉnh. Qua đến thời nhà Nguyên, Minh, Thanh, mặc dù có khi kẻ cai trị là người "ngoại tộc" nhưng nền văn minh Trung Quốc vẫn tiếp tục phát triển.

Và đến đầu thế kỷ này, châu
Âu đã phát triển qua được ba trăm năm sau thời kỳ phục hưng, súng ống của họ đã mạnh hơn sức sáng tạo của văn quan nho sĩ thời nhà Thanh và đã xâu xé nước Trung Quốc. Người Hán tỉnh giấc mộng dài và sực thấy ngoài rợ Hồ ngày xưa còn có người phương Tây sẵn sàng xâm chiếm mình. Người Trung Quốc phản ứng theo cách của họ và ngày nay ta có một nước Trung Quốc rộng mênh mông hơn bao giờ cả, nhưng nền văn hóa ngày xưa cũng chưa bao giờ bị lãng quên như bây giờ. 

Hai nền tảng vĩ đại của tòa nhà văn minh Trung QuốcLão giáoKhổng giáo đã làm gốc cho một nền học thuật khoảng 2500 năm. Nó là hai thái cực luôn luôn bổ túc lẫn nhau trong đầu óc của người Hán. Nếu Khổng Giáo lấy xã hội nhân sinh này làm đối tượng của nhận thức và hành động thì Lão Giáo tìm hiểu cái gốc của trời đất, của muôn vật và thuận theo đó mà ứng xử. "Nội thánh ngoại vương" như thế là đầy đủ, về tư tưởng hầu như họ không còn gì để bổ túc nữa. Về giang hà, sơn lâm, hồ hải thì Trung Quốc tự nó là một thế giới, họ không cần tìm kiếm xa xôi. Về dân tộc thì Hán tộc của họ có số lượng cực lớn nhưng tương đối thuần chủng, ngôn ngữ, chữ viết khá thống nhất. 

Vì những lẽ đó mà đi khắp các vùng Trung Quốc, từ Bắc Kinh Thượng Hải tráng lệ đến những vùng quê hẻo lánh, đời sống lầm than, tôi luôn luôn có cảm giác Trung Quốc là một cây cổ thụ vĩ đại sống đã ngàn năm. Nó bắt rễ từ những mảnh đất rất xa xôi, rất khác nhau; lam lũ thu hút những chất bổ dưỡng trong lòng đất tối tăm để cho một thân cây sum sê lá cành. Và trên những cành đó là nghệ thuật nở hoa đủ thứ màu, sinh trái đủ thứ vị. Từ hàng triệu con người cần cù không tên đó, qua những thế hệ mà ta hay đếm hàng trăm năm, một nền học thuật phong phú được sinh ra như đạo học, thi ca, văn học, thư pháp, âm nhạc, hội họa, gốm sứ... 

Người Trung Quốc vì những lẽ đó thường quá tự hào, cho rằng mình có thể là một thế giới riêng, không cần phải du nhập điều gì từ bên ngoài cả, nội cái tên nước đã phản ánh tâm lý này rồi. 

Chính vì thế mà tôi càng ngạc nhiên hơn về cách mà người Trung Quốc tiếp nhận đạo Phật, một tôn giáo được du nhập từ Ấn Độ. Chúng ta hãy nhớ rằng Phật giáo đến Trung Quốc trong thế kỷ thứ nhất, khi Khổng GiáoLão Giáo đã định hình hơn năm thế kỷ, khi nước Trung Quốc đã thống nhất dưới thời Tần Thủy Hoàng, khi chủ trương bảo vệ bờ cõi đã rõ với việc xây dựng Vạn lý trường thành. Thế thì tại sao những người Trung Quốc đầy tự hào đó lại mở rộng vòng tay đón chào các loại kinh điển "ngoại lai" từ Tây Vực tới và thờ cúng một "người nước ngoài" là Thích-ca mâu-ni. Tôi phải tự trả lời cho mình câu hỏi này. 

Từ thế kỷ thứ nhất đến nay gần 2000 năm, Phật giáo để một dấu ấn quá đậm tại Trung Quốc tới mức khó hiểu. Từ phía cực tây như Đôn Hoàng với các thạch động nổi tiếng đến các quần đảo cực đông như Phổ Đà sơn, từ vùng Bắc Kinh lạnh lẽo với Linh Quang tự đến miền Hồ Nam với Huệ Năng xuất chúng, đi tới đâu ta cũng thấy chùa chiền tự viện của Phật giáo, nhiều hơn hẳn đền đài thờ đạo sĩ hay nho sĩ. 

Hãy nhớ lại công lao hoạt động của người xưa mà ta chỉ có thể kể vài người tiêu biểu. Đó là công trình phiên dịchtruyền giáo của các "Phạm tăng" Ấn Độ như Ma-đằng và Trúc Pháp Lan trong thế kỷ thứ nhất, An Thế Cao sau đó khoảng 100 năm. Trong thế kỷ thứ 4 có Phật Đồ Trừng đến Lạc Dương năm 310, Cưu-ma-la-thập đến Hậu Lương năm 386. Năm 520 Bồ-đề Đạt-ma đến Trung Quốc, khai sáng dòng Thiền ở đó và từ đó Phật giáo vươn lên sống mãi với thời gian. Ngược lại tăng sĩ Trung Quốc đi Ấn Độ cũng không thiếu mà những người nổi danh nhất là Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh. Đến thế kỷ thứ 11, 12 lúc Phật giáo suy tàn tại Ấn Độ thì tại Trung Quốc, Phật giáo còn rực rỡ hơn tám trăm năm nữa. 

Tôi chỉ có thể lý giải sự hưng thịnh này của Phật giáo bằng cách cho rằng tư tưởng đại thừa đã đáp ứng đúng đòi hỏi học thuậttôn giáo của người Trung Quốc. Một mặt thì Khổng giáo quá chú ý đến xã hội thế gian, cho cái siêu thế gian không thể tiếp cận được. Mặt khác Lão Giáo quá ít lời về Đạo, cũng cho rằng không thể nói về Đạo. Hơn thế nữa Lão giáo cho triết lý hành động một nội dung "vô vi", hành động nhưng không có bất cứ chủ đích gì, điều này gây không ít hoang mang cho con người, nhất là con người mang đầy tính xã hội của Trung Quốc. Về sau người đạo sĩ Trung Quốc thường có hình ảnh một vị luyện linh đan, sống trường sinh bất tử, thường cỡi hạc đi chơi với mây gió. 

Khi Phật giáo đến Trung Quốc trong thế kỷ thứ nhất, có người hiểu lầm đây là đạo LãoPhật giáo cũng nói về một cái Đạo "bất khả tư nghì", nhưng ấn tượng đó sớm biến mất. Vì nếu Lão Tử bỏ đời ra đi và được người đời tôn thành Thái Thượng Lão quân thì các tăng sĩ Phật giáo từ phương xa lại, dịch kinh điển và tìm cách nói về cái "không thể nghĩ bàn". Người Trung Quốc lắng nghe và thấy đây là cái có thể chấp nhận được.

Trong thời Nam Bắc Triều (420-588) nhờ Cưu-ma-la-thập, tư tưởng Trung quán của Long Thụ được truyền báChân Đế (61) là người đưa Duy thức đến Trung Quốc. Đến thời nhà Đường, Thiền tôngHoa Nghiêm rực lên như một ánh đuốc trong nền văn hóa tôn giáo tại Trung Quốc. Hiển nhiênPhật giáo đã trộn với Lão giáo để thành Thiền tông Trung Quốc và với Hoa Nghiêm tông, người Trung Quốc thấy rằng có thể nói về một Tính Không, ít nhất là về cái "dụng" của nó. 

Giáo lý đại thừa còn thích hợp với người Trung Quốc ở chỗ nó cho con người một hình ảnh lý tưởng, đó là hình ảnh bồ-tát. Đó là những người tuy hành động không vướng mắc nhưng có "tác ý" hẳn hoi, không quá khó hiểu như "vô vi" của Lão giáo. Hơn thế nữa, hình ảnh bồ-tát thõng tay vào chợ để cứu độ con người rất thích hợp với đầu óc thực tiễn của người Trung Quốc. Họ không thể quay lưng với xã hội, cỡi hạc rong chơi mà nghĩ rằng đời mình phải làm gì cho có ích và nếu không phải để dạy dỗ giáo hóa thì để làm gì. Hành động dạy dỗ là thái độ của Khổng giáo và nội dung giáo hóatư tưởng đại thừa.

Thú vị thay, nếu Thiền tông là sự tổng hòa của Phật giáoLão giáo, thì ý niệm bồ-tát có một yếu tố của Khổng giáo. Hình ảnh của các vị La Hán của Trung Quốc trong các đại hùng bảo điện nói lên điều đó. Có vị thì như cây khô ngồi trên cành thông mang hình ảnh của đạo sĩ, có vị da đen tóc quăn quên cả tam thế mang hình ảnh của A-la-hán Ấn Độ và cũng có vị tươi cười nhìn người đời, khuôn mặt như một vị sư biểu với lòng sẵn sàng dẫn dắt. Cả hai nền tảng Lão giáoKhổng giáo tìm lại trong nền Phật giáo Trung Quốc dấu ấn của mình và đều làm cho triết lý đại thừa lớn mạnh hơn cả Ấn Độ. Các thiên tài tôn giáo Ấn Độ cần phải có một miếng đất đã cày bừa sẵn như Trung Quốc để tư tưởng họ có thể đơm hoa kết trái. 

Từ nền Phật giáo đại thừa đó của Trung Quốc mà các dòng truyền thừa lan qua Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc. Tại các nước đó, dĩ nhiên Phật giáo lại hòa nhập với nền văn hóa bản xứ để thành một nền Phật giáo với bản sắc riêng, trong đó Thiền tông, Hoa Nghiêm, Tịnh Độ, Thiên Thai, Mật tông có thể hòa quyện với nhau để ra những bồ-tát, thiền sư bản xứ. Tuy khác nhau, nhưng trong ba nước đó đều có chung những nét giống nhau về giáo pháp, về triết lý nhận thức và hành động.

Do đó trên bước đường tại Trung Quốc có khi tôi thấy mình như ở trong một ngôi chùa nào quen thuộc, tiếng tụng kinh, mùi nhang trầm như vọng lại từ một mối chung. Trung Quốc đã đóng vai trò đầu nguồn Phật giáo cho các nước vùng Đông Á, điều đó ta phải khâm phục thừa nhận. Ngày nay có nhiều tranh cãi liệu Phật giáo Việt Nam từ Trung Quốc du nhập hay từ Ấn Độ trực tiếp truyền qua, dù coi trọng tính chất nghiêm túc của lịch sử nhưng tôi không thấy các cuộc tranh luận đó đóng vai tròđáng kể trong triết lý tôn giáo

Trung Quốc là một nước với một nền học thuật thâm sâu, xứng danh ngang hàng với Ấn Độ, là những chiếc nôi của văn minh loài người. Hai nước đó nằm sát bên nhau có chung một dãy Hy-mã lạp sơn đầy huyền bí, cùng có chung một mái nhà mà từ đó những con sông thiêng băng núi rừng chảy ra biển cả. Giữa Trung QuốcẤn ĐộTây Tạng, đó lại là một vùng đất kỳ lạ, một nơi mà Phật Giáo phát triển lên một mức độ siêu việt hơn cả đại thừa

Vì thế tôi thấy mình phải đi Tây Tạng.

(47) - Bản dịch của Tản Đà 
(48) - Tiếng Nhật: Rinzai 
(49) - Tiếng Nhật: Dogen Kigen (1200-1253) 
(50) - Tiếng Nhật: Soto 
(51) - Bộ luận căn bản của Phật giáo 
(52) - Thiên Đồng Như Tịnh (1163-1228), học trò của Tuyết Đậu Trí Giám 
(53) - Saicho, 767-822, cũng được gọi là Truyền Giáo đại sư 
(54) - Công án nổi tiếng của Triệu Châu "- Con chó có Phật tính không ? - Không !" 
(55) - 1870-1966, tên Hán Việt là Linh Mộc Đại Chuyết 
(56) - Essays in Zen-Buddhism, bản dịch Việt ngữ của Trúc Thiên-Tuệ Sĩ 
(57) - Có tài liệu ghi là năm 858 
(58) - Theo Sử ký Tư Mã Thiên, bản dịch Nguyễn Hiến Lê. Điều thú vị là theo truyền thuyết của Việt Nam thì An Kỳ Sinh về sau đến núi Yên Tử, Quảng Ninh Việt Nam để tu tiên. Yên Tử là tổ đình của Thiền Trúc lâm. Trên Yên Tử có một khối đá tự nhiên, nhìn giống như tượng đạo sĩ mặc áo choàng. Gần tượng đá có động Dược am (am thuốc) và Thung am (am luyện thuốc) 
(59) - Trích Diệu pháp liên hoa kinh, Phẩm Phổ Môn thứ 28, Việt dịch của Thích Nhất Chân 
(60) - Trích Diệu pháp liên hoa kinh, đã dẫn 
(61) - Paramartha, 499-569, dịch các tác phẩm của Duy thức tông như Nhiếp đại thừa luận, Duy thức nhị thập tụng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6151)
Mùa An Cư Kiết Hạ năm 2016 nầy tôi bắt đầu viết tác phẩm thứ 67 để sang năm 2017 xuất bản với nhan đề là "Nước Mỹ bao lần đi và bao lần đến"
(Xem: 15772)
Khánh Hòa là xứ Trầm Hương, Non cao biển rộng người thương đi về... Quách Tấn
(Xem: 14102)
Kinh thành đá Gia Na là thạch kinh có quy mô lớn nhất trên thế giới, với các tảng đá ma ni trên đó khắc lục tự chân ngôncác loại kinh văn, là thắng tích văn hóa hiếm thấy.
(Xem: 13369)
Thật không ngoa chút nào, khi tạp chí Chùa cổ Bình Dương cho rằng, chùa Tây Tạng là "dấu ấn đầu tiên của Mật tông”.
(Xem: 13919)
Tây Tạng là quê hương của những bậc thánh nhân, những vị bồ tát, những đạo sĩ sống cô tịch và độc cư nơi rừng sâu núi thẳm để tu tập thiền định.
(Xem: 13957)
Đến đây, nếu để ý bạn sẽ thấy gần như mỗi người Tây Tạng đi đâu cũng xoay trên tay bánh xe mani (một ống đồng xoay trên một trục thẳng đứng)...
(Xem: 19526)
Tất cả đang im lặng trong chàng. Triết Hựu có thể nghe được, trong một lúc mười muôn triệu thế giới đang dừng lại, chỉ còn một hơi thở và một trái tim.
(Xem: 16161)
Trưởng giả Tu-đạt-đa (cũng gọi là Tu-đạt) là một nhà từ thiện lớn, luôn vui thích làm những chuyện phước đức, bố thí. Ông thường cứu giúp những người nghèo khó...
(Xem: 26813)
Chùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ.
(Xem: 19322)
Nằm giữa mây mù và rừng nguyên sinh hoang rậm, cả hệ thống những thiền viện, am, chùa cổ hiện ra - với toà ngang dãy dọc, với ngôi tháp đá tảng xanh 7 tầng...
(Xem: 17141)
Vượt qua một cây cầu dài và hơi bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā.
(Xem: 21744)
Ở trên khuôn viên của núi Mihintale hiện còn có một hang động và người ta cho rằng hang động ấy là nơi mà Tôn giả Mahinda đã ở lại đấy trong lần đầu tiên ngài đến Mihintale.
(Xem: 24859)
Qua ký sự, tác giả giới thiệu những vùng đất tâm linh của Phật giáo đồng thời nói lên niềm cảm khái của mình trước các vùng đất thiêng liêng, và cảm xúc của ông về thế giới hiện đại.
(Xem: 20767)
Trước khi Người nhập diệt Đại Bát-Niết-bàn, Phật đã khuyên những đệ tử kính đạo nên viếng thăm, chiêm bái bốn nơi để được tăng thêm sự truyền cảm về tâm linh của mình...
(Xem: 16892)
Trong các công hạnh đơn giản mà sâu dày và khó thực hiện cho vẹn toàn nhất là hạnh buông xả. Hành giả Phật giáo lấy tâm buông xả làm công hạnh hàng đầu.
(Xem: 21877)
Chúng tôi đi với hai mục đích chính: Thay mặt toàn thể Phật tử Việt Nam chiêm bái các Phật tích và viết một quyển ký sự để giới thiệu các Phật tích cho Phật Tử Việt Nam được biết.
(Xem: 21178)
Trong lúc thiền quán, tôi tập trung suy nghĩ rất nhiều những lời thầy dạy. Tôi bừng tỉnh nhận ra quả thật điều mà tôi khổ công tìm kiếm không phải là việc say mê dành trọn thời gian cho việc tu tập thiền định.
(Xem: 15163)
Lang thang trên đất nước Myanmar rộng lớn bạn sẽ không ngừng được tiếp xúc với hàng loạt xưởng thủ công tạc tượng Phật từ đá (chủ yếu là đá cẩm thạch)...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant