Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Phần 3

Friday, August 26, 201100:00(View: 11147)
Phần 3

Kinh Công Đức Các Bổn Nguyện của Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai Lược Giảng

 Đời Đường, Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang phụng chiếu dịch

 Tuyên Hóa Thượng Nhân giảng

Đối với chúng ta là những người theo học Phật Pháp, mọi thứ khác đều không thể so sánh với Phật Pháp được; các loại kiến thức, các điều học hỏi cho đến công việc kiếm ăn sinh sống cũng không thể quan trọng bằng Phật Pháp. Hôm nay, chẳng phải có người nói rằng một nữ Phật tử đã ăn chayhoan hỷ đến nghe Kinh khi có Pháp sư “tam bộ nhất bái” đến giảng kinh ở nơi này ư? Thực là một việc hiếm có. Như quý vị có thể trân quý thời gian nghe kinh, quý vị xem việc nghe kinh mới là trọng yếu, thời quý vị mới chính là một đệ tử tốt của Phật. Cho nên chúng ta phải có thành tâmthành ý để nghe kinh.

 

Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng: Thế Tôn! Con thề khi nào đời Tượng Pháp chuyển, dùng nhiều phương tiện, khiến người tịnh tín, thiện nam thiện nữ, được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, cho đến lúc ngủ cũng đem hiệu Phật giác ngộ vào tai.

Nhĩ thời Mạn Thù Thất Lợi đồng tử bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã đương thệ ư Tượng Pháp chuyển thời, dĩ chủng chủng phương tiện, linh chư tịnh tín, thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, đắc văn Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai danh hiệu, nãi chí thụy trung, diệc dĩ Phật danh giác ngộ kỳ nhĩ.

 

 “Bấy giờ đồng tử Mạn Thù Thất Lợi bạch đức Phật rằng:”, lúc bấy giờ, Ngài Văn Thù Sư Lợi bạch Phật rằng: “Thế Tôn! Con thề khi nào đời Tượng Pháp chuyển”, con xin thề, vào thời Tượng Pháp chuyển; “dùng nhiều phương tiện”, dùng rất nhiều phương tiện, tức là các pháp nào hợp với tình thế, với căn cơ rồi tùy duyênthuyết pháp. Con sẽ dùng trí huệ quan sát xem pháp nào là phương tiện để hóa độ hết thảy chúng sanh; “khiến người tịnh tín, thiện nam thiện nữ”, khiến cho hết thảy các thiện nam, thiện nữ, thanh tịnh và có tín tâm; “được nghe danh hiệu Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, nghe được danh hiệu của Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “cho đến lúc ngủ cũng đem hiệu Phật giác ngộ vào tai”, thậm chí cả lúc đương ngủ, nếu cơ duyên đã thành tựu, trong giấc mộng, con cũng cho nghe danh hiệu của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, khiến cho họ được giác ngộ.

Vừa rồi có nói về thời Tượng Pháp chuyển. Thế nào là Tượng Pháp? Số là Phật Pháp gồm có các thời kỳ sau: thời kỳ Chánh Pháp, thời kỳ Tượng Phápthời kỳ Mạt Pháp.

Thời Chánh Pháp kể từ lúc Phật trú ở thế gian. Đó là thời của “thiền định kiên cố”, ai nấy đều ngồi thiền tập định. Có thuyết nói thời chánh pháp kéo dài 500 năm, có thuyết nói tới 1000 năm. Kế tiếpthời Tượng Pháp, Thời này là thời chấp vào hình tướng. Người ta chú trọng nhiều về tướng biểu hiện bên ngoài, và coi nhẹ phần bên trong. Chánh Pháp nhằm vào công phu “nội thánh”, còn Tượng Phápcông phu “ngoại vương”. Bởi chấp tướng nên trong thời kỳ Tượng Pháp, người ta đua nhau xây nhiều chùa miếu, nên gọi thời này là “miếu tự kiên cố”, chỉ có thiểu số tu, còn phần đông thì chẳng tu hành. Thời Chánh Pháp thì ngược lại: đa số tu hành, thiểu số không tu. Thời gian của Tượng Pháp có thể là 1000 năm, mặc dầu có thuyết nói 500 năm.

Sau cùng là thời đại Mạt Pháp, thời của chúng ta hiện nay. Chúng ta đã cách Phật xa rồi. Vào thời này, thiền định chẳng “kiên cố”, mà chùa miếu cũng chẳng “kiên cố”, chỉ có “tranh chấp kiên cố” mà thôi. Vào cái thời này ư! Người thì đấu tranh với người, nhà nọ thì tranh chấp với nhà kia, nước này đánh nhau với nước kia, rồi chiến tranh giữa các tinh cầu, nguyệt cầu, vậy mới gọi là đấu tranh kiên cố. Người ta không còn biết làm gì khác ngoài việc đấu tranh với nhau, mà không đấu tranh thì thanh toán nhau. Quả là môt thời đại khủng khiếp! Tại sao chúng ta lại sanh vào thời đại này? Có thể nói rằng chúng ta không tạo nên điều gì tốt nên mới sanh trong thời Mạt Pháp, khi Phật Pháp tới bước đường cùng, sắp phải tiêu ma. Người ta bảo thời Mạt Pháp là 1000 năm, nhưng nay chúng ta hãy coi như thời đại này là 10.000 năm.

Từ thời Phật tại thế đến nay là 3000 năm. Các thời Chánh PhápTượng Pháp qua đi, cứ mỗi thời kỳ là 1000 năm, vậy bây giờ chúng ta đã qua 1000 năm của thời Mạt Pháp. Chúng ta không có may mắn được đích thân trông thấy cảnh tượng của thời Chánh Pháp khi lúc Phật trú tại thế gian. Tuy nhiên, dầu ở trong Mạt Pháp, chúng ta vẫn phải đề xướng Chánh Pháp, phải phát nguyện làm sao khiến cho Mạt Pháp chuyển thành Chánh Pháp. Ai ai cũng phát nguyện, thế tất không có Mạt Pháp. Hiện nay Phật giáo đã truyền sang phương Tây, vậy chúng ta phải tích cực đề xướng Chánh Pháp, hoằng dương Chánh Pháp, mỗi hành vi cử chỉ của chúng ta đều phải hướng tới mục tiêu Chánh Pháp. Đó là tôn chỉ của tôi lâu nay. Quý vị nghe xong thời phải phát tâm Bồ đề rộng lớn và tích cực hộ trì Chánh Pháp Nhãn Tạng.

 

Bạch đức Thế Tôn! Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này, hoặc là diễn thuyết khai thị cho người hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết, hoặc là tôn trọng cung kính kinh này, đem nhiều các thức hương hoa: hương bôi, hương bột hương đốt, tràng hoa anh lạc, phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường, lấy sợi ngũ sắc, làm túi đựng kinh, quét rửa chỗ sạch, thiết lập tòa cao, làm chỗ để kinh. Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô số trăm ngàn Thiên chúng, đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dường. Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành, có người thọ trì, và nhờ công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, được nghe danh hiệu, nên biết chỗ ấy không còn có người bị hoạnh tử, chẳng còn ai bị bọn quỷ thần ác đoạt mất tinh khí, ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ.

Thế Tôn! Nhược hữu thử kinh thọ trì đọc tụng, hoặc phục vị tha diễn thuyết khai thị, nhược tự thư, nhược giáo nhân thư, cung kính tôn trọng, dĩ chủng chủng hoa hương, đồ hương, mạt hương, thiêu hương, hoa mạn, anh lạc, phan cái, kỹ nhạc, nhi vị cúng dường, dĩ ngũ sắc thải, tác nang thịnh chi, tảo sái tịnh xứ, phu thiết cao tòa, nhi dụng an xứ, nhĩ thời tứ Đại Thiên Vương, dữ kỳ quyến thuộc, cập dư vô lượng bách thiên Thiên chúng, giai nghệ kỳ sở, cúng dường thủ hộ. Thế Tôn! Nhược thử kinh bảo lưu hành chi xứ, hữu năng thọ trì, dĩ bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai bổn nguyện công đức, cập văn danh hiệu, đương tri thị xứ vô phục hoạnh tử, diệc phục bất vị chư ác quỷ thần đoạt kỳ tinh khí, thiết dĩ đoạt giả, hoàn đắc như cố, thân tâm an lạc.

 

Ngài Văn Thù Sư Lợi lại bạch Phật: “Nếu ai thọ trì đọc tụng kinh này”, nếu có ai trong tương lai, vào thời Tượng Pháp, hoặc thời Mạt Pháp, mà thọ trì đọc tụng kinh này - tức chỉ kinh Công Đức Bổn Nguyện Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai - như có thể ngày ngày niệm kinh, lấy bổn kinh ra đọc, hay thuộc lòng kinh mà tụng niệm; “hoặc là diễn thuyết khai thị cho người”, hoặc diễn thuyết cho người nghe những ý nghĩa sâu xa của kinh văn, giải thích rõ ràng từng điểm một, hoặc là khai thị bằng những thí dụ khiến người nghe được sáng tỏ nghĩa kinh và điểm trọng yếu của kinh.

 “Hoặc tự mình viết, hoặc khiến người viết”, hoặc tự mình viết hoặc bảo người khác viết bộ kinh này; “hoặc là tôn trọng cung kính kinh này”, như lễ lạy bộ kinh, trân quý bộ kinh, hoặc cúng dường bộ kinh bằng những thức sau: “đem nhiều các thức hương hoa”, lấy các loại hoa và hương như “đồ hương, mạt hương, thiêu hương”, hương bôi, hương bột, hương đốt; “tràng hoa anh lạc, phướn lọng âm nhạc, để mà cúng dường”, tràng kết hoa, anh lạc, tràng phan, lọng che, các thứ âm nhạc như các loại nhạc tán Phật, các thứ này để làm đồ cúng dường kinh; “lấy sợi ngũ sắc, làm túi đựng kinh”, lấy chỉ năm mầu làm túi đựng kinh; “quét rửa chỗ sạch”, quét dọn sạch sẽ một chỗ “thiết lập tòa cao, làm chỗ để kinh”, dựng lên một vị trí cao để an trí bộ kinh, vậy là tỏ hết lòng cung kính.

 “Bấy giờ sẽ có bốn Đại Thiên Vương, cùng với quyến thuộc, với cả vô số trăm ngàn Thiên chúng”, lúc bấy giờ sẽ có bốn vị đại Thiên vương, cùng với quyến thuộcvô lượng vô biên hàng trăm ngàn Thiên chúng; “đều đến chỗ ấy, gìn giữ cúng dường”, đều đến chỗ ấy để lễ lạy bộ kinhgiữ gìn bộ kinh.

“Bạch đức Thế Tôn! Nếu ở nơi nào kinh báu lưu hành”. Nếu nơi nào có kinh quý báu này lưu hành; “có người thọ trì”, ở đó có người thọ trì, thời “nhờ do công đức bổn nguyện của đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai”, “cập văn danh hiệu”, và do nghe được danh hiệu; “nên biết chỗ ấy không còn có người bị hoạnh tử”, thời phải biết rằng nơi đó - nghĩa là nơi có kinh điển - không có cảnh chết một cách dữ dằn của hoạnh tử[1]; “chẳng còn ai bị bọn quỷ thần ác đoạt mất tinh khí”, cũng không bị bọn quỷ thần ác đoạt mất tinh khí làm cho nạn nhân mất hết khí lực; “ai bị đoạt rồi, lại được thân tâm an vui như cũ”, hoặc giả nếu lỡ bị đoạt rồi thời khí lực được khôi phục và thân tâm được trở lại an vui. Tóm lại hết sạch mọi phiền não, tai nạn thảy đều tiêu tan, không còn chết chóc bởi tai họa, mọi điều hung hiểm không phát sinh nữa. Như vậy, bất cứ ai trong chúng ta mỗi khi gặp việc gì quỷ quái, thời nên thỉnh một bộ kinh Công Đức Bổn Nguyện của đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, đem về nhà để cúng dường. Đó chính là một Pháp bảo có thể trấn giữ tà ma, mang lại niềm an tịnh cho gia đình.

 

Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng như ông nói, ông Mạn Thù ơi! Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình tượng của Ngài, lập tòa thanh tịnh mà rước tượng lên, rắc các thứ hoa, đốt các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy, bảy ngày bảy đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh, tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh, tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất cứ ai. Đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui từ bi hỷ xả bình đẳng, cử nhạc ca tán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt, lại phải ghi nhớ, công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này, suy nghĩ nghĩa kinh, diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại nguyện, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giầu có được giầu có, cầu chức quan được chức quan, cầu trai gái được trai gái.

 

Phật cáo Mạn Thù Thất Lợi! “Như thị, như thị, như nhữ sở thuyết!” Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, dục cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai giả, ưng tiên tạo lập bỉ Phật hình tượng, phu thanh tịnh tòa, nhi an xứ chi, tán chủng chủng hoa, thiêu chủng chủng hương, dĩ chủng chủng tràng phan trang nghiêm kỳ xứ, thất nhật thất dạ, thọ bát phần trai giới, thực thanh tịnh thực, tảo dục hương khiết, trước thanh tịnh y, ưng sanh vô cấu trọc tâm, vô nộ hại tâm, ư nhất thiết hữu tình, khởi lợi ích an lạc, từ bi hỷ xả, bình đẳng chi tâm, cổ nhạc ca tán, hữu nhiễu Phật tượng, phục ưng niệm bỉ Như Lai bổn nguyện công đức, độc tụng thử kinh, tư duy kỳ nghĩa, diễn thuyết khai thị, tùy sở nhạo cầu, nhất thiết giai toại; cầu trường thọ đắc trường thọ, cầu phú nhiêu đắc phú nhiêu, cầu quan vị đắc quan vị, cầu nam nữ đắc nam nữ.

 

 “Đức Phật bảo Ngài Mạn Thù Thất Lợi: Đúng thế! Đúng thế! Đúng như ông nói, ông Mạn Thù ơi!”, Phật bảo Ngài Văn Thù: “Ông Mạn Thù ơi! Đúng vậy! Đúng vậy! Đúng như ông đã nói”.

 “Nếu có thiện nam thiện nữ tịnh tín mà muốn cúng dường Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”, nếu có thiện nam, thiện nữ tịnh tín muốn cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “trước hết phải tạo hình tượng của Ngài”, thời điều trước tiên là phải tạo hình tượng của Ngài; “lập tòa thanh tịnh”, thiết lập một tòa thanh tịnh; “mà rước tượng lên”, rước tượng lên an vị; “rắc các thứ hoa, đốt các thứ hương”, rắc các loại hoa, đốt các thứ nhang; “đốt các thứ hương, dùng nhiều tràng phan, trang nghiêm chỗ ấy”, rồi lấy nhiều tràng phan trang hoàng nơi đạo tràng đó.

Có một điều phải hiểu rằng chúng ta dâng hương hoa lên chư Phật và Bồ tát, chẳng phải vì Phật và Bồ tát còn có tâm tham, ham ăn ham uống, muốn mọi người cúng dường trà nước hay các món chay để thưởng thức. Nghĩ như vậy là không đúng. Chúng ta cúng dường hương hoa là để biểu lộ tâm thànhthiện ý của chúng ta, chớ không phải vì Phật muốn như vậy. Chúng ta dâng hương và hoa ư? Chẳng phải vì vậy mà Phật thêm hoan hỷ. Không dâng hương hoa ư? Chẳng phải vì vậy mà Phật buồn. Chư Phật không cầu gì nơi chúng ta, nhưng chúng ta thì chỉ có một cách là dâng hương quý, hoa quý để chứng tỏ lòng thành kính đối với chư Phật mà thôi.

Lễ cúng Phật chẳng phải giống như cách thức của một số người ngu dốt cứ cầm cả bó nhang lớn đến trước Phật mà dâng hương. Đức Phật ở chỗ ấy, ngài phóng quang để bảo hộ chúng sanh; bây giờ quý vị lại đốt nhiều nhang như vậy, khói bốc lên mù mịt mờ cả mắt Phật, mờ cả hào quang, khiến cho việc cứu độ chúng sanh không thành! Đó là tôi đã lấy sự hiểu biết của phàm phu để đo lường cảnh giới của Phật. Song, điều tôi muốn nói ở đây là không nên dâng hương theo kiểu đó, bởi làm như vậy có khác gì bầy thức ăn đầy cả một cái bàn dài trên 10 trượng, rồi bắt người ta ăn cho hết. Muốn cúng Phật, ta chỉ cần 3 cây hương, hoặc giả thêm một cây nữa cho vị Hộ Pháp ở phía trước, cộng lại là 4 cây. Bình thường một cây hương là đủ rồi. Nếu trong lòng của quý vị chân thành thì dù không có cây hương nào, các Bồ tát vẫn hộ trì quý vị. Chỉ cần quý vị tâm niệm về đức Phật, về Pháp, về Tăng, cũng như niệm Kinh thì chư Phật sẽ hoan hỷ. Chẳng cứ có nhang Phật mới hoan hỷ!

Đối với chúng ta, ai xúc phạm thì buồn, ai tán thưởng thì vui. Phật không hẹp hòi như vậy. Chúng ta không nên đem lòng dạ của kẻ phàm phu để đo tâm lượng của bậc thánh, mà suy ra rằng Phật cũng tham như ta, thấy tiền của càng nhiều càng tốt, nhang đốt càng nhiều càng quý. Nghĩ vậy là sai lầm. Đừng bắt chước mấy người mê tín kia, đến chùa lễ bái một cách mê tín, dâng hương theo lối mê tín. Quý vị có hỏi họ: “Sao đốt lắm nhang vậy?” tất họ sẽ trả lời: “Đốt càng nhiều càng quý!” Hỏi họ quý như thế nào, họ cũng chẳng biết. Thử hỏi vậy chẳng phải hồ đồ sao? Cho nên là tín đồ Phật giáo, chúng ta phải làm theo chân lý, theo trí huệ chớ không thể xử sự theo lối mê tín.

 “Bảy ngày bảy đêm, giữ tám trai giới, ăn uống thanh tịnh”, nghĩa là trong bảy ngày bảy đêm, thọ trì bát quan trai giới, không ăn đồ mặn, có nghĩa là ăn uống thanh tịnh; “tắm gội sạch sẽ, bận áo thanh tịnh”, tắm gội cho thân thể sạch mùi mồ hôi và cáu ghét, dùng nước thơm để tắm, sau đó mặc quần áo đã giặt sạch, chẳng nhất thiết là loại quần áo đẹp đẽ hay đắt tiền, cốt sao cho sạch tức là cung kính Phật rồi.

 “Tâm phải thanh tịnh, không chút vẩn đục, không tâm giận dữ, hại bất cứ ai”, tâm phải thanh tịnh, không vẩn đục, không giận dữ, bao nhiêu tư tưởng bẩn thỉu, rác rưởi trong đầu phải gột rửa để tâm được thanh tịnh, không chút giận dữ tổn hại người khác; “đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm lợi ích an vui từ bi hỷ xả bình đẳng”, đối với hết thảy các loài hữu tình, khởi tâm mong sự lợi ích an vui cho tất cả, cùng với tâm từ bi hỷ xảbình đẳng; “cử nhạc ca tán, nhiễu quanh tượng Phật, về bên tay mặt”, cử nhạc rồi hát bài tán, đi nhiễu quanh tượng đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang về bên tay phải; “lại phải ghi nhớ, công đức bổn nguyện của đức Phật kia, đọc tụng kinh này”; “suy nghĩ nghĩa kinh”, suy ngẫm nghĩa lý của Kinh Bổn Nguyện Công Đức của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang; “diễn thuyết khai thị, rồi những điều cầu, đều được toại nguyện, cầu sống lâu được sống lâu, cầu giàu có được giàu có, cầu chức quan được chức quan, cầu trai gái được trai gái”. Như vậy chúng ta đủ thấy rằng công đức kinh của đức Phật Dược Sư Lưu Ly Quang to lớn biết chừng nào! Chỉ cần thành tâm là các điều mong cầu của quý vị sẽ linh ứng.

 

Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác, những hình tướng ác, hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu, hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở, người ấy nếu đem các thứ quý giá, cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết, chẳng làm hại được. Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo, voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại, nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết. Nếu có nước khác, xâm lấn quấy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức Phật kia, cũng đều giải thoát.

 

Nhược phục hữu nhân, hốt đắc ác mộng, kiến chư ác tướng, hoặc quái điểu lai tập, hoặc ư trú xứ, bách quái xuất hiện, thử nhân nhược dĩ chúng diệu tư cụ, cung kính cúng dường bỉ Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai giả, ác mộng ác tướng, chư bất cát tường giai tất ẩn một, bất năng vi hoạn; hoặc hữu thủy hỏa đao độc huyền hiểm, ác tượng, sư tử, hổ lang hùng bi, độc xà ác yết, ngô công du diên, văn manh đẳng bố, nhược năng chí tâm ức niệm bỉ Phật, cung kính cúng dường, nhất thiết bố úy, giai đắc giải thoát; nhược tha quốc xâm nhiễu, đạo tặc phản loạn, ức niệm cung kính bỉ Như Lai giả, diệc giai giải thoát.

 

 “Lại hễ có người, bỗng thấy mộng ác”, nghĩa là giả dụ có người bỗng nhiên gặp ác mộng, trong giấc mộng thấy chuyện chẳng lành, chẳng hạn thấy mình chết, thấy người khác chết, mình bị đụng xe, thấy người nhảy xuống biển, đại khái những điều chẳng lành v.v..; “những hình tướng ác”, như thấy một con quỷ la-sát dữ tợn, một con yêu miệng rộng giơ nanh, hoặc ông thiên lôi đương cầm búa lăm le bổ xuống, nói chung là các cảnh đất động, núi lở, sóng thần, những sự việc kinh khủng mà người ta gặp trong cơn ác mộng; “hoặc chim quái ác, ở đâu đến đậu”, hoặc giả các loại chim kỳ quái đến tụ tập trên nóc nhà, như loại cú đầu mèo, cú vọ, quạ; “hoặc có lắm sự, quái ác hiện ra, tại ngay chỗ ở”, hoặc nơi cư ngụ có cả trăm loài yêu quái xuất hiện, ban ngày thấy quỷ, ban đêm thấy ma, như thấy cây chổi quét nhà tự nó đi đi lại lại, cái bầu nước bay lơ lửng trên không, nói chung là trăm ngàn sự việc kỳ quái xuất hiện.

 “Thử nhân” nghĩa là người ấy, hay gia đình ấy, “nếu đem các thứ quý giá”, nếu dùng các đồ quý giá, thuộc loại đắt tiền; “cung kính cúng dường đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thời những mộng ác, những hình tướng ác, những điều chẳng lành, đều biến mất hết”, đem những thứ đó để cúng dường đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai một cách cung kính, thời những mộng ác, tướng ác, tỷ dụ như trong mộng thấy rắn, thấy hổ, sói, beo, sâu bọ, tất cả những thứ chẳng lành đó, bỗng dưng tiêu tan hết. Cho nên bất kể người nào trong chúng ta, nếu trong nhà xảy ra những sự tình chẳng lành, chúng ta nên gấp gáp cúng dường đức Phật Dược Sư một cách cung kính, thì ắt sẽ có điều cát tường đến, mọi rắc rối sẽ biết mất; “chẳng làm hại được”, không còn lo ngại vấn đề gì nữa; “Hoặc có sợ hãi tai nạn thủy hỏa, đao binh độc chất, cheo leo hiểm nghèo”, hoặc bị nước nhấn chìm, bị lửa đốt, bị dao chém, gặp chất độc, hoặc ở chỗ cheo leo hiểm nghèo; “voi dữ sư tử, hùm sói gấu bi, rắn độc bọ cạp, rết độc sâu bọ, ruồi muỗi các loại”, các loại voi dữ, sư tử, hổ, báo, gấu đen, bi – “bi” cũng là một loại ác thú - rắn độc, bọ cạp, rết, sâu du diên, tức là loài sâu chuyên hút tủy não trong đầu, ruồi muỗi hay các loại sâu bọ có hại, nói chung các thứ gây nên sợ hãi; “nếu dốc một lòng, niệm đức Phật kia, cung kính cúng dường, thời các sợ hãi, đều được giải hết”, nếu như dốc lòng nhớ tới đức Phật Dược Sư, rồi cúng dường một cách cung kính, thì tất cả mọi thứ sợ hãi đều được giải trừ; “Nếu có nước khác, xâm lấn quy rối, giặc cướp phản loạn, thời người cung kính, niệm đức Phật kia, cũng đều giải thoát”, nếu có một nước khác đến xâm lược, hay là trong nước đạo tặc hay phản loạn nổi lên, song trong lòng luôn luôn nhớ tới đức Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, thì các nạn này cũng được giải trừ. Tóm lại, hết thảy các tai nạn đều nhất loạt tiêu tan, xấu đổi thành tốt, điều chẳng lành biến thành điều may mắn.

 

Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi! Nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng tin thanh tịnh, cho đến hết đời chẳng thờ thần khác, chỉ dốc một lòng quy Phật Pháp Tăng, chịu giữ cấm giới, hoặc năm giới, mười giới, bốn trăm giới Bồ tát, hai trăm năm mươi giới Bật-sô, năm trăm giới Bật-sô-ni, nếu trong chỗ giới, có ai vi phạm sợ đọa đường ác, mà hay chuyên niệm danh hiệu Phật kia, cung kính cúng dường, thì quyết chẳng sanh, vào ba đường ác. Hoặc có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn, nếu hay dốc lòng niệm danh hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường, thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết, đứa con sanh ra thân phận đầy đủ, hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng, thông minh sáng láng, an ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí.

 

Phục thứ Mạn Thù Thất Lợi! Nhược hữu tịnh tín thiện nam tử, thiện nữ nhân đẳng, nãi chí tận hình bất sự dư thiên, duy đương nhất tâm quy Phật Pháp Tăng, thọ trì cấm giới, nhược ngũ giới, thập giới, Bồ tát tứ bách giới, Bí sô nhị bách ngũ thập giới, Bí sô ni ngũ bách giới, ư sở thọ trung, hoặc hữu hủy phạm, bố đọa ác thú, nhược năng chuyên niệm bỉ Phật danh hiệu, cung kính cúng dường giả, tất định bất thọ tam ác thú sanh; hoặc hữu nữ nhân lâm đương sản thời, thọ ư cực khổ, nhược năng chí tâm xưng danh lễ tán, cung kính cúng dường bỉ Như Lai giả, chúng khổ giai trừ, sở sanh chi tử, thân phận cụ túc, hình sắc đoan chính, kiến giả hoan hỷ, lợi căn thông minh, an ổn thiểu bệnh, vô hữu phi nhân đoạt kỳ tinh khí.

 

“Còn nữa này ông Văn thù Sư Lợi!”. Đức Phật Thích-ca lại nhắc: “Còn nữa, này ông Văn Thù Sư Lợi”; “Nếu có những người, thiện nam thiện nữ, lòng tin thanh tịnh”, nếu có những thiện namthiện nữlòng tin thanh tịnh; “cho đến hết đời”, tận hình là hết một đời; “chẳng thờ thần khác” (bất sự dư thiên), tức là không lễ bái trời đất, quỷ thần, không theo các đạo khác v.v..; “chỉ dốc một lòng quy Phật Pháp Tăng”, dốc một lòng nương tựa Phật Pháp Tăng; “thọ trì cấm giới”, cấm nghĩa là không được làm, giới cấm thì phải giữ một cách nghiêm cẩn; “hoặc năm giới” như năm giới cấm là: giết hại chúng sanh, trộm cắp, dâm tà, nói dối, uống rượu; “mười giới”, còn gọi là giới Sa-di; “bốn trăm giới Bồ tát, hai trăm năm mươi giới Bí-sô, năm trăm giới Bí-sô-ni”, bốn trăm giới của các vị Bồ-tát, hai trăm năm mươi giới của các Tỳ-kheo, còn đối với các Tỳ-kheo-ni thì có năm trăm giới.

 “Nếu trong chỗ giới”, nghĩa là trong phạm vi các giới cấm; “có ai vi phạm”, hễ có sự vi phạm, cố ý hay không cố ý; “sợ đọa đường ác”, lòng rất sợ hãi sẽ bị đọa vào ba đường ác; “mà hay chuyên niệm danh hiệu Phật kia”, nếu như thành khẩn và thiết tha niệm danh hiệu của đức Phật kia, nghĩa là niệm: “Nam-mô Tiêu Tai Diên Thọ Dược Sư Phật”; “cung kính cúng dường, thì quyết chẳng sanh, vào ba đường ác”, thành tâm khẩn thiết cung kínhcúng dường thì người đó nhất định không bị sa vào các đường ác, như đọa địa ngục, hoặc làm quỷ đói hay làm kiếp súc sanh.

 “Hoặc có nữ phụ, tới khi sanh nở, chịu rất đau đớn”, giả dụ trường hợp phụ nữ, lúc sắp sanh con, đau đớn không chịu nổi; “nếu hay dốc lòng niệm danh hiệu Phật, lễ bái tán thán, cung kính cúng dường”, nếu người đó dốc lòng xưng tán danh hiệu, hoặc giả cung kính cúng dường đức Phật kia, tức đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai; “thì mọi đau khổ, đều tự diệt hết”, thì các sự đau đớn sẽ được giải trừ.

 “Đứa con sanh ra thân phận đầy đủ”, đứa con sanh ra, dầu trai hay gái, đều đủ cả sáu căn, không phải như trường hợp thiếu một cái tai hay thiếu một con mắt, mũi, miệng v.v.. tóm lại thân thể hoàn toàn đầy đủ, hoàn chỉnh.

 “Hình dáng đoan chính, ai thấy cũng mừng, thông minh sáng láng, an ổn ít bệnh, không bị phi nhân, đoạt mất tinh khí”, đây nói về tướng mạo của đứa trẻ thì tốt đẹp, hoàn hảo, ai trông thấy cũng ưa, các căn thì sáng láng, thông minh lạ thường, sức khỏe tốt, ít đau ốm, lại không gặp cảnh huống bị bọn yêu quái đoạt mất tinh khí. Tại sao được như vậy? Bởi đức Thế Tôn Dược Sư Lưu Ly Quang Như Laioai thần lớn nên hết thảy các loài yêu ma quỷ quái, các loại ngưu quỷ, xà thần đều phải xa lánh.
Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 40353)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(View: 7590)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(View: 13089)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(View: 31497)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(View: 31470)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 8823)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(View: 13595)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(View: 13063)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(View: 12553)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(View: 15140)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(View: 37955)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(View: 10849)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(View: 53989)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(View: 11755)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(View: 11411)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(View: 11804)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(View: 11575)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(View: 14118)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(View: 17446)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(View: 23541)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(View: 10270)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(View: 7850)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(View: 11235)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(View: 14358)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(View: 13886)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(View: 17363)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(View: 17638)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(View: 14794)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(View: 18557)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(View: 13413)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(View: 15009)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(View: 15207)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(View: 10002)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(View: 12562)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(View: 12365)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(View: 17653)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(View: 15262)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(View: 17161)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(View: 13494)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(View: 13028)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(View: 12660)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(View: 16711)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(View: 12498)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(View: 15074)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(View: 12974)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(View: 13839)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(View: 16271)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(View: 12700)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(View: 14212)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(View: 15529)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(View: 22254)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(View: 14115)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(View: 11752)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(View: 21851)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(View: 15388)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(View: 22135)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(View: 19063)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(View: 15136)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(View: 32840)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(View: 12839)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM