ĐI VỀ CÕI TỊNH
Tịnh Nghiêm-Nghiêm Xuân Cường
Mẹ
tôi mất vào một buổi trưa cuối tháng Bẩy. Mẹ đi
nhẹ nhàng như một hơi thở. Một tuần trước khi mẹ
mất, người chị lớn gọi tôi từ Cali:
“Cường
ơi, em có về được không, mẹ sắp đi rồi- chắc cũng chỉ
độ nay mai thôi.”
Cũng
lạ, mình sống với mẹ gần cả cuộc đời; mình lớn lên,
mẹ già đi, sức khoẻ mỗi ngày một yếu như chiếc đèn
dần cạn dầu, biết rằng sẽ có ngày mẹ ra đi nhưng dù
ai có sửa soạn cách mấy, đến phút từ ly cũng chẳng thể
nào sẵn sàng. Nước mắt từ đâu tràn đầy mắt tôi;
vé đã lấy, chỉ chưa đặt tiền ‘confirm’ thì buổi tối
chị tôi lại cho biết:
“Chiều
nay anh Hùng về, mẹ đã khoẻ lại rồi, mẹ nói sẽ ráng
đợi em đó.”
Các
chị kể lại là mẹ từ bệnh viện về hôm thứ Tư, mê man
không nói năng gì, bụng của mẹ không biết vì lý do gì trương
cứng như trái banh, ăn gì cũng nôn ra. Anh Hùng về từ
Oklahoma tối thứ Bẩy, anh niệm chú Quan Âm Quán Đảnh cầu
an cho mẹ. Mầu nhiệm làm sao! hôm sau bụng mẹ xẹp xuống
và mẹ dùng được đồ ăn lỏng chuyền qua ống dẫn vào
bụng (gastric tube)
Sáng
thứ Ba 25 tháng 7, 2006. Tôi đi chuyến sớm nhất từ Detroit.
Ngồi trên máy bay tôi cứ thấp thỏm, không biết mình đến
nơi có còn kịp gặp mẹ phút cuối không. Tôi chỉ còn
biết cầu nguyện Chư Phật và Bồ Tát gia hộ cho mẹ được
tâm vắng lặng bình an khi ra đi; lòng thầm nghĩ, nếu còn
duyên thì sẽ còn gặp mẹ, có lo cũng đâu ích gì. Tôi
đến phi trường LA cũng đã hơn một giờ trưa, và về tới
nhà chị Nhung cũng đã gần hai giờ. Tôi vội chạy lại
giường nơi mẹ tôi đang nằm từ hơn hai tuần lúc ở bệnh
viện về. Các chị lại nhắc mẹ:
“Me
ơi, em Cường về rồi này me!”
Mắt
vẫn nhắm như từ cả tuần trước, mẹ đưa bàn tay khẳng
khiu về phía tôi. Tôi cầm lấy bàn tay mẹ tôi, nắm
chặt lại. Đây cũng là đôi bàn tay thương yêu mà hơn
bẩy chục năm trời đã miệt mài cho bố và tất cả các
anh chị em chúng tôi. Tôi liên tưởng đến những lời thơ
thật ngọt ngào về Mẹ của Chiếu Tuệ:
Bất
chợt chiều nay nhìn lại
Bàn
tay Mẹ cắm hoa hường
Đôi
tay một đời nhẫn nại
Bây
chừ ...ngón đã trơ xương
Từ
lâu đôi bàn tay ấy
Con
quên cầm lấy một lần
Ôi
bàn tay thương biết mấy
Dịu
dàng, độ lượng, từ tâm ...
Mẹ
nằm đó, thân thể gầy yếu sau nhiều năm bị bệnh tiểu
đường, tôi nhìn mẹ, lại nhìn tấm hình Bố Mẹ tôi chụp
trước đó vài năm. Hơn bẩy mươi năm trời mà các cụ
còn gắn bó như keo sơn, đi đâu cũng không rời nhau một bước. Mấy hôm nay về đây tôi sẽ đọc Bát Nhã Tâm Kinh cho mẹ.
Tôi giở trang Kinh Bát Nhã bằng tiếng Việt trong Nhật Tụng
Thiền Môn năm 2000 của Thầy Nhất Hạnh đọc cho mẹ nghe:
Bồ
Tát Quán Tự Tại khi quán chiếu thâm sâu Bát Nhã Ba La Mật
(tức diệu pháp trí độ) bỗng soi thấy năm uẩn đều không
có tự tánh. Thực chứng điều ấy xong, Ngài vượt thoát
tất cả mọi khổ đau ách nạn…
Mẹ
ơi, mẹ ra đi an vui nhé không có gì để vướng bận đâu. Mà có lẽ mẹ hiểu điều ấy cũng dễ thôi vì tuy rằng ít
đi chùa mẹ vẫn thực hành bố thí suốt cả đời mẹ rồi. Chi Khanh kể có một lần (lúc còn ở Việt Nam năm 1973) sau
khi lãnh lương, chị vui sướng lắm đến gặp mẹ, nói:
“Hôm
nay con mới lãnh lương, me có cần mua sắm gì không?”
Mẹ
bảo: “Con đưa me một ngàn. Hôm nay con chở me lên Lăng
Ông nhé.”
Lăng
Tả Quân Lê Văn Duyệt, tên quen thuộc là Lăng Ông ở cách
nhà chúng tôi nửa giờ xe. Trước cửa Lăng có hằng
chục người ăn mày lúc nào cũng túc trực sẵn, chờ khách
thập phương hảo tâm. Vừa thấy me và chị Khanh họ
xúm chung quanh bà cụ. Me cầm lấy nắm tiền đưa cả
cho một người có vẻ lớn tuổi nhất trong bọn:
“Đây,
các ông bà cầm lấy mà chia nhau nhé!”
Me
vừa đi, họ lại chạy theo xin nữa. Me cười, bảo:
“Có
bao nhiêu tôi đã đưa cả rồi còn đâu mà cho!”
Chị
Khanh ngạc nhiên hỏi me:
“Sao
me bảo cần tiền tiêu mà lại đưa cả cho họ?”
Me
cười hồn nhiên:
“Thì
họ tiêu có khác gì mình tiêu đâu.”
Một
lần khác, mẹ và chị Khanh đang ngồi trên xe buýt bỗng nhìn
thấy một bà cụ đang che nắng cho người con trai, có lẽ
là một thương phế binh cụt cả hai chân, giữa trời nắng
gắt của trưa hè Sàigòn. Mẹ bảo ông tài xế xe buýt:
“Xin
ông dừng xe ngay được không, tôi muốn xuống cho bà cụ ít
chục bạc.”
Ông
tài xế phản đối:
“Phải
có trạm mới dừng được chớ. Bà chờ trạm sau đi.”
Về
nhà, me kể lại mà cứ ấm ức thương hai mẹ con người thương
phế binh ấy.
Tính
mẹ vốn rất thương người. Những người hoạn nạn,
túng thiếu, chỉ cần hỏi là mẹ tìm cách giúp ngay. Nếu
trong nhà (thường khi) không có, mẹ lại đi hỏi người khác
để vay hộ, kết quả là có nhiều lần mẹ đã phải “trả
nợ đậy”. Khốn nỗi, vì “chẳng có cái dại nào
giống cái dại nào” đến lúc có người khác hỏi mẹ lại
quên chuyện cũ và nhận lời giúp nữa. Những người giúp
việc trong nhà, khi có việc đi đâu, ở nhà để dành phần
cơm, mẹ cũng lựa miếng ngon nhất cho họ. Đối với
những người nghèo, kém may mắn hơn mình, mẹ chẳng bao giờ
có ý khinh khi mà luôn nói:
“Chẳng
qua là mình may mắn hơn họ mà thôi.”
Nhà
đông mười người con, lúc di cư vào Nam, bố làm công chức
lương chẳng bao nhiêu nên lúc nào mẹ cũng phải lo toan sao
cho các con đầy đủ. Mười tám năm ở với gia đình,
tôi chưa thấy mẹ có nữ trang gì ngoài chiếc nhẫn cưới
giản dị. Lúc mất mẹ cũng chỉ có vỏn vẹn một đôi
bông tai nhỏ bằng cẩm thạch. Mỗi dạo Tết Trung Thu,
tôi lại nhớ những năm còn bé- lúc ấy tôi khoảng 12-13 tuổi
- mẹ lại làm bánh dẻo để bầy bán kiếm thêm chút tiền
chi tiêu cho gia đình. Gian nhà nhỏ bỗng nhiên trở nên
nhộn nhịp, chỗ này một nồi nước đường chỗ kia để
nhân bánh, chỗ nọ để khuôn, chỗ khác nhồi bột… Những tiếng khuôn đập vào sạp gỗ cứ liên miên bất tận. Vất vả là vậy mà chẳng bao giờ thấy mẹ than phiền. Sau này khi mẹ mất vài tháng, các chị kiếm đuợc cuốn sổ
tay nhỏ của mẹ có ghi những giòng mực đã phai:
-tháng
5, 25 1966 hôm nay bốc hụi
-tháng
8, 1966 trả nợ cho ông bà M.
-tháng
4, 1967 mua hụi tại nhà bà N.
-tháng
10, 1967 mượn ông M. 100,000 lãi 6 phân
-tháng
4, 1968 hốt hụi non…
và
sau cùng
-từ
tháng 7, 1978 các con đi Mỹ gởi tiền về bây giờ mới trả
hết nợ.
Tuổi thơ của tôi là những ngày vui đánh đinh, đánh đáo, lớn hơn nữa thì dùi mài sách vở học thi, nào có biết gì đến những nỗi lo âu "chạy ăn từng bữa toát mồ hôi" của cha mẹ. Tôi đọc những giòng đơn giản đó mà thương mẹ xiết bao. Mấy chục năm trời mẹ sống với mình, có lúc ở ngay bên cạnh mà mình có hiểu mẹ đâu. Bố tôi thì trái lại, bố biết là mình có người vợ rất đảm đang và lo toan, bố viết bài thơ tặng mẹ:
Hiền
Thê
Điều
khiển lo toan hết sức mình
Xây
nhà, mở tiệm việc linh tinh
Kỹ
sư nếu luyện dư bằng cấp,
Gia
chánh, chuyên theo mấy khoa trình.
Giòng
dõi nho phong nguồn đức tính
Công,
dung, ngôn, hạnh, nghĩa chung tình.
Bao
năm chỉ thắm duyên càng đậm,
Thế
sự thăng trầm chẳng kém xinh.
1965
Bố mẹ sống với nhau bẩy mươi hai năm, từ tháng 11 năm 1934. Năm ấy bố tôi hai mươi sáu tuổi (hăm bảy tuổi ta) mối mai nhiều đám nhưng không thành. Một buổi sáng chủ nhật, tháng 9 năm 1934, ông đi ngang qua công viên trước cửa Vọng Cung (Thái Bình) bỗng thấy mẹ băng qua vườn hoa về nhà. Bố tôi thuật lại như sau:
Hên
Không
hẹn mà nên
Hăm
bảy tuổi rồi ế thực ư?
Gió
đưa hạnh phúc đến không ngờ!
Bình
minh soi tỏ công viên tỉnh,
Nhẹ
gót băng qua bóng tiểu thư.
Mối
lái tuần đầu nhờ mẹ bạn,
Tân
hôn trong tháng thoáng như mơ!
Tình
yêu Hồng thắm tuần trăng mật,
Tiếng
sét âm thanh mãi đến giờ.
Đúng
là tiếng sét âm thanh vẫn còn mãi tận hơn bảy mươi năm
sau. Hai ông bà cụ già đi đâu cũng có nhau, những lúc
còn khoẻ bố tôi vẫn nấu sữa cho mẹ dùng
… Nấu cháo luộc khoai bừng tỉnh sang
Bung
ngô, pha sữa lúc lên đèn.
Cơm
lành canh ngọt thêm ngon miệng
Dưa
nén, mắm nêm vẫn thấy thèm…
Chị Nhung ở chung nhà để săn sóc bố mẹ, kể lại là mỗi đêm khi mẹ trở mình thì sẵn cái còi đeo ở tay bố lại thổi “toe-toe” lên mấy tiếng, chị lại chạy vội vào để xem bố mẹ cần gì, có đêm bố thổi còi cả mấy lần làm chị thật vất vả. Mấy hôm nay, bố tôi buồn lắm, bỏ ăn, bỏ ngủ. Tính ông cụ vốn đã ít nói, bây giờ lại càng khó cậy được nửa câu. Trưa thứ Tư, chú Tân đến thăm bố tôi, ông cụ nói:
“Bà ấy mà đi thì tôi cũng chẳng thiết sống nữa!”
Chú Tân nói:
“Anh phải ráng ăn mà sống chứ, bây giờ mà anh cũng nằm xuống thì chúng nó lo không xuể đâu!”
Bố tôi bị ung thư bàng quang (bladder cancer) từ tháng 8, 2005, mấy lần tiểu giải phẫu, sức cũng đã rất yếu từ mấy tháng trước nhưng vẫn ráng gắng gượng vì ông cụ nói:
“Tôi mà đi trước thì bà ấy khổ lắm.”
Tối thứ Tư, 7-26-06. Hôm nay tôi lại đọc Bát Nhã Tâm kinh cho mẹ nghe:
…Nghe đây Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác gì sắc. Sắc chính thực là không, không chính thực là sắc. Còn lại bốn uẩn kia, cũng đều như vậy cả. Xá Lợi Tử nghe đây: Thể mọi pháp là không, không sanh cũng không diệt, không thêm cũng không bớt, không nhơ cũng không sạch….
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn. Mẹ ơi, mẹ có nghe không chúng con đang hát ru mẹ đây? Chị Trang đứng cạnh tôi, hai chị em dựa vai vào nhau, tay nắm tay cùng hát cho mẹ nghe. Mấy chục năm trước mẹ ru cho chúng tôi ngủ, bây giờ chị em chúng tôi lại hát cho mẹ nghe. Gương mặt mẹ thật là bình yên.
Chiều thứ Sáu, 28 tháng 7, 2006. Hôm nay các anh chị trong Ban Hộ Niệm Đạo Tràng Long Hoa và Tổng Hội Cư Sĩ cũng đến cầu an và tụng kinh cho mẹ. Mấy tháng nay, anh chị Sâm-Khanh và quý vị trong Ban Hộ Niệm vẫn thường xuyên tới cầu an cho mẹ. Gần hai năm nay, mẹ bị lẫn (Alzheimer) hơi nhiều, có lẽ vì biến chứng của bệnh tiểu đường. Có lần mẹ mơ thấy ông ngoại, thấy cậu Đôn –các vị đã ra đi từ hơn năm mươi năm trước, khi tỉnh dậy mẹ lại nước mắt ràn rụa nhớ thương. Những lần sau khi được cầu an, mẹ ngủ say một mạch tới sáng và không than phiền vì mộng mị nữa. Huyền diệu thay sức mạnh của những thời kinh!
Trưa thứ Bảy, 29 tháng 7, 2006. Buổi trưa sau 12 giờ, một người bạn thân của gia đình chúng tôi, anh Yến đến thăm mẹ. Chúng tôi đứng trong phòng với mẹ hơn nửa tiếng. Gần 1 giờ trưa, tôi mời anh bạn ra phòng ngoài dùng bữa trưa. Chúng tôi vừa ngồi xuống sửa soạn ăn thì anh Hùng gọi tôi vào trong. Anh bảo tôi:
“Mẹ mới đi rồi, lúc 1 giờ trưa, bình an lắm. Anh lỡ gọi mẹ lại, mẹ mở mắt nhìn anh. Anh thưa với mẹ: ‘Thôi mẹ đi vui, chúng con sẽ cầu Phật độ cho mẹ’ Thế là mẹ đi.”
Như vậy là mẹ đã đi, đi thật rồi. Mười tám năm trời ở bên cạnh mẹ tôi không hiểu hết tình mẹ bao la, lòng mẹ dịu hiền thế nào. Thầy Nhất Hạnh viết về mẹ, một đoản văn (Bông Hồng Cài Áo) mà tôi nghĩ không thể có một bài viết, khúc ca, một bài thơ nào ngọt ngào mà đằm thắm hơn:
…Một bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà quê Việt nam không ưa cách nói cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã diễn tả được tình mẹ một cách vừa giản dị vừa đúng mức:
Mẹ
già như chuối ba hương
Như
xôi nếp một, như đường mía lau.
Ngon biết bao! Những lúc miệng vừa đắng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào mẹ đến, kéo chăn đắp lên ngực cho ta, đặt bàn tay (Bàn tay? hay là tơ trời đâu la miên?) trên trán nóng ta và than thở "khổ chưa, con tôi ", ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, dịu như xôi nếp một, và đậm đà lịm cả cổ họng như đường mía lau. Tình mẹ thì trường cửu, bất tuyệt; như chuối ba hương, đường mía lau, xôi nếp một ấy không bao giờ cùng tận. ….
Mười tám năm ở với mẹ… rồi mười sáu năm bố mẹ sang đến nước Mỹ. Tôi bận rộn, tôi mải mê hết cuộc hành trình này đến những giấc mơ đời khác, để không biết là bên cạnh mình có một kho tàng thương yêu mà hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Tôi đã mất cả một kho tàng của yêu thương, của hạnh phúc mà khi có tôi chưa biết trân quý. ôi chợt nhớ một khúc nhạc rất thiết tha của Võ Tá Hân trong CD Những Ngày Bên Mẹ gần đây của anh:
Thao
thức canh thâu dạ héo hon
Ví
như băng giá lạnh trong hồn
Niềm
đau mất mẹ còn trơ đó
Ân
đức cao vời tợ Thái sơn
Mẹ
hỡi giờ đây mẹ chốn nào?
Biết
chăng con nhớ mẹ con sầu
Có
nghe con gọi trong nước mắt
Mẹ
hỡi bây giờ mẹ ở đâu?
(Bây
Giờ Mẹ Ở Đâu, thơ Lệ Ngọc)
Tiếng hát của Vân Khánh với giọng Huế thật truyền cảm và tha thiết, từng nốt nhạc, từng lời thơ như rót vào tai tôi. Lòng tôi lúc này như có ngàn mũi kim châm, tôi muốn chạy đến níu mẹ lại mà nào có ích gì. Con trẻ hay người lớn mà mất mẹ thì cũng khổ chẳng kém gì nhau. Tôi biết sẽ có một ngày mẹ ra đi, nhưng biết không có nghĩa là có thể chuẩn bị cho nỗi nhớ tiếc tràn đến như giông bão khi mẹ ra đi.
Năm
xưa tôi còn nhỏ
Mẹ
tôi đã qua đời
Lần
đầu tiên tôi hiểu
Thân
phận trẻ mồ côi
Quanh
tôi ai cũng khóc
Im
lặng tôi sầu thôi
Ðể
dòng nước mắt chảy
Là
bớt khổ đi rồi...
Hoàng
hôn phủ trên mộ
Chuông
chùa nhẹ rơi rơi
Tôi
thấy tôi mất mẹ
Mất
cả một bầu trời
Ôi
trời cao xa thẳm
Có
nghe rõ lời tôi
Từ
trần gian cát bụi
Tôi
đã mất mẹ rồi!
(Mất
Mẹ, thơ Xuân Tâm và Bảo Uyên)
Đó
là tâm trạng của tôi bây giờ, tôi đã mất cả một bầu
trời, một bầu trời đầy yêu thương, bấy lâu nay tôi đi
dưới bầu trời ấy mà nào có hay. Bài thơ Mất Mẹ
của Xuân Tâm và Bảo Uyên, giản dị mà thật là thấm thía. Nước mắt tôi ướt đầm trên má khi nghe những lời nhạc
như quyện vào thơ. Tôi vẫn ưa thích bài thơ này nhưng
đến bây giờ mới thực sự cảm nhận được cái nỗi đau
da diết và thiết tha của nó. Thật là một tình cờ
đến lạ lùng. Anh Võ Tá Hân mới gởi tặng tôi CD này
tháng trước. Vừa nghe tôi đã thích ngay vì nó có nhiều
bài về Mẹ, bài nào cũng nói rõ được tâm trạng của người
con xa mẹ và nhất là người con mất mẹ. Tôi thấm thía nhất
là Thảnh Thơi Mẹ Về, thơ Tuệ Kiên
Con
khóc mẹ lệ rơi thổn thức
Cảnh
từ ly thật quá đau thương
Mẹ
đi rồi ngõ trúc vắng tanh
Đàn
con trẻ từ nay mất mẹ
Ðâu
dáng mẹ từ bi thuở ấy
Chờ
đàn con tan lớp học về
Trước
bàn thờ đâu còn dáng mẹ
Tay
lần tràng miệng khẽ Nam-mô
Mẹ
niệm Phật Di Ðà sớm tối
Lạy
Quan Âm Bồ Tát tinh chuyên
Niệm
hồng danh Chư Tổ Thánh Hiền
Cầu
tịnh độ Tây Phương Cực Lạc
Mẹ
đi rồi cháu con ngơ ngác
Thấy
vô thường man mác buồn tênh
Ðời
như chiếc lá bồng bềnh
Chiếc
thân tứ đại lênh đênh bến nào?
Theo
ánh Ðạo chuyển tâm Bồ Tát
Trọn
đời nương Phật pháp huân tu
Xa
lìa trần cấu ngục tù
Ta
bà cõi tạm, phù du hão huyền
Buông
xác phàm thuyền đã mục nát
Trọn
đời tu vun phước trợ đời
Vượt
qua bờ giác Mẹ ơi!
Tây
Phương cõi tịnh thảnh thơi Mẹ về.
Phải
rồi, để cho mẹ đi để mẹ còn về cõi Tịnh, xa lìa trần
cấu ngục tù. Mình giữ mẹ ở lại khi thân xác đã
mỏi mòn thì thật là tội nghiệp cho mẹ. Tôi đã được
thật nhiều an ủi từ ý thơ dòng nhạc, nhất là ở hai đoạn
cuối. Tôi có cảm tưởng đang nghe một bài hợp tấu
cổ điển, một Funeral March - thật buồn nhưng cũng thật trang
trọng. Chín mươi mấy năm trời mẹ ở với cuộc đời, thời
gian dù có dài đến mấy cũng chỉ là ta bà cõi tạm, phù
du hão huyền mà thôi. Chúng ta, trong giờ phút đau thương
của tử biệt sinh ly, đau khổ càng đau khổ hơn khi chấp
cái vô thường là thường hằng. Bài học vô thường
ở trước mặt mỗi giây, mỗi phút mà có mấy khi ta chịu
nhìn sự vật như nó là. Than khóc buồn khổ là một chuyện
tự nhiên mỗi khi ta xa cách, vĩnh biệt người thân, mà làm
như thế cũng không đòi hỏi chút vốn liếng tuệ giác nào,
điều quan trọng là người Phật tử có nhân cơ hội đó
mà học hỏi để sống sao cho lợi mình, lợi người. Tôi chợt nhớ đến một bài pháp thoại của Thầy Trúc Thông
Phổ mà tôi đã được nghe qua: “Chết Cũng Là Một Pháp
Tu”. Sự ra đi của người thân là một cú “sốc”
mạnh giúp chúng ta nhận rõ chân lý bất di bất dịch “sinh,
lão, bệnh, tử” mà Đức Phật đã dạy từ hơn hai mươi
sáu thế kỷ trước. Phật pháp đã cho tôi những phương
thuốc vi diệu mà tôi sẽ phải đem dùng trong những ngày sắp
tới để qua khỏi nỗi đau to tát này.
Mẹ
tôi mất vào buổi trưa, nhưng chúng tôi dặn nhà quàn gần
nửa đêm mới đến đem mẹ đi để thần thức của mẹ được
ít nhất 8 giờ yên nghỉ. Bố tôi mặc quần áo tươm
tất đi chậm đến bên giường, cầm tay mẹ một hồi lâu,
Bố nói:
“Thôi
bà đi vui vẻ nhé, hai tháng nữa tôi sẽ theo bà!”
Trong
tiếng cầu kinh của Ban Hộ Niệm Đạo Tràng Long Hoa cả gia
đình chúng tôi đã từ biệt mẹ tôi, chờ đến ngày phát
tang,
Trưa
Thứ Sáu, 4 tháng 8, 2006. Hôm nay là Lễ Phát Tang của
me. Tất cả họ hàng nội, ngoại gần xa, bạn bè đã
tề tựu đông đủ. Trong tiếng đọc kinh của quý Chư
Tôn Đức Chùa Bát Nhã và quý vị Ban Hộ Niệm Đạo Tràng
Long Hoa, hai người nhân viên nhà quàn đặt mẹ vào trong áo
quan. Mẹ nằm đó yên lặng như trong một giấc ngủ. Mẹ ơi, mẹ ngủ yên nhé! Mai đây mẹ đi về cõi Tịnh,
hết những đau thương phiền lụy của cõi ta bà ô trược
này. Anh Hùng đẩy xe lăn đưa bố tôi đến trước linh
cữu của mẹ. Bố yên lặng một hồi lâu rồi gạt giòng
nước mắt, không nói gì hơn, có lẽ những gì đáng nói bố
đã nói, những gì làm đuợc bố đã làm lúc mẹ còn sinh
tiền. Sau đó mọi người đưa bố tôi về nhà nghỉ
ngơi. Bố đã chín mươi chín tuổi ta, sức đã cạn kiệt
sau gần một năm vật lộn với căn bệnh ung thư.
Chủ
Nhật, 6 tháng 8, 2006. Hôm nay là Lễ Hỏa Táng của mẹ. Sắp đến giây phút từ biệt mẹ vĩnh viễn. Chút nữa
đây khi ngọn lửa thiêu đốt xác thân giả hợp của mẹ
thành tro bụi, chúng tôi sẽ còn gì để nhớ về mẹ? Tôi nhớ lời dạy của Bát Nhã Tâm Kinh:
Nghe
đây Xá Lợi Tử: Sắc chẳng khác gì không, không chẳng khác
gì sắc. Sắc chính thực là không, không chính thực là
sắc. Còn lại bốn uẩn kia, cũng đều như vậy cả. Xá Lợi Tử nghe đây:Thể mọi pháp là không, không sanh cũng
không diệt, không thêm cũng không bớt, không nhơ cũng không
sạch. Cho nên trong tánh không, không có sắc, thọ, tưởng. Cũng không có hành thức, không có nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân,
ý sáu căn. Không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp
-sáu trần ....
Hãy
lấy cặp mắt tuệ giác mà Phật pháp đã cho ta để nhìn
thật rõ, nếu nhìn như thế, tôi sẽ thấy mẹ chẳng đi đâu
cả, mẹ vẫn còn đó trong tất cả các anh chị em, con, cháu
nội ngoại chung quanh đây, và ngày nào chúng tôi, các con cháu
vẫn tiếp tục hạnh nguyện của mẹ, ngày đó mẹ vẫn luôn
luôn ở cạnh chúng tôi. Mẹ vẫn đang ở trong tôi, các con,
các cháu chắt của mẹ, ngay bây giờ và ở đây như Thiền
Sư Nhất Hạnh viết trong Không Diệt Không Sinh Đừng Sợ Hãi
(Việt dịch: Chân Huyền, NXB Lá Bối, San Jose CA 2004, nguyên
tác No Death No Fear, Riverhead Books, 2002):
Nếu
bạn biết tu tập, thì tới giờ phút chia lìa, bạn sẽ không
quá khổ sở. Bạn sẽ sớm nhận thức được rằng mẹ
bạn vẫn đang sống trong bạn.
Ngày
mẹ tôi chết, tôi viết vào nhật ký: “Tai nạn lớn nhất
đời tôi đã xảy ra rồi. “Tôi đau khổ hơn một năm sau
khi mẹ qua đời. Nhưng rồi một đêm khi ngủ trong một
cái cốc ở vùng cao nguyên Việt Nam, tôi nằm mơ thấy mẹ
tôi. Tôi thấy tôi ngồi chơi bên bà và chúng tôi nói
chuyện rất vui. Mẹ tôi trông trẻ đẹp, tóc bà thả
dài xuống lưng. Thật là sung sướng được truyện trò
với mẹ như thể lúc bà chưa chết vậy. Tôi tỉnh dậy
vào lúc hai giờ sáng và có cảm giác thực sự là tôi chưa
bao giờ mất mẹ. Cảm tưởng mẹ vẫn còn ở trong tôi
nó rất rõ ràng. Tôi hiểu rằng ý tưởng mất mẹ chỉ
là một ý tưởng mà thôi. Rõ ràng lúc đó tôi thấy
mẹ luôn luôn còn sống trong tôi.
Tôi
mở cửa đi ra ngoài. Tất cả sườn đồi được tắm
trong ánh trăng. Đó là một đồi trà và thất của tôi
ở lưng chừng đồi, phía sau ngôi chùa. Khi đi bộ thong thả
giữa các luống trà, tôi vẫn cảm thấy mẹ tôi ở bên tôi.
Bà là ánh trăng vuốt ve như bà thường hay làm, thật dịu
dàng âu yếm… thật là kỳ diệu! Mỗi khi chân tôi chạm
đất, tôi biết mẹ tôi vẫn đang ở bên cạnh. Tôi biết
cái thân này không phải của riêng tôi mà nó là sự tiếp
nối của mẹ, cha, của ông bà, của cụ kỵ, của tổ tiên. Những dấu chân tôi tưởng của tôi, thực ra là của cả
hai chúng tôi. Tôi và mẹ cùng để lại những dấu chân trên
mặt đất ẩm ướt đó.
Từ
lúc ấy, ý nghĩ mất mẹ không còn hiện diện trong tôi nữa. Tôi chỉ cần nhìn vào bàn tay tôi, cảm nhận hơi gió mát
trên mặt đất hay đất dưới bàn chân, là tôi nhớ mẹ tôi
luôn luôn có mặt với tôi, trong mọi thời điểm...
Thực
tập quán chiếu như vậy, tôi bớt đau khổ vì ý tưởng đã
mất mẹ. Tôi biết là mẹ luôn có mặt với tôi trong mọi
giây phút, nhất là những giây phút tôi làm những việc lợi
lạc cho tha nhân. Những lúc ấy, tôi cảm thấy mẹ đang
cười và nói:
“Con
giỏi lắm, hãy tiếp tục như thế mãi con nhé!”
Sau
ngày mẹ mất, tôi thấy rõ ràng là dù ít khi đến chùa mẹ
đã thực sự sống đúng như lời dạy của Phật pháp, thể
hiện tứ vô lượng tâm (từ, bi, hỷ, xả) bằng cuộc sống
hằng ngày của chính mình. Bố mẹ đã không để lại
cho chúng tôi một tài sản vật chất nào nhưng đã trao truyền
lại cho thế hệ sau những bài học thương yêu vô giá. Tôi biết rằng mình chẳng bao giờ cách xa cha mẹ bởi vì
trong tôi, trong tất cả các con cháu vẫn còn tấm gương hy
sinh sáng ngời của hai đấng sinh thành. Nhờ ánh sáng
mầu nhiệm của Phật pháp, tôi hiểu rằng báo hiếu không
phải là khóc lóc sầu thương, xây bia dựng mộ, cúng giỗ
linh đình… mà là tiếp tục truyền thống yêu thương của
tổ tiên, ông bà cha mẹ đã trao truyền cho mình. Xin được
phép trích dẫn sau đây một đoạn liên hệ trong bài viết
sâu sắc “Đôi Điều Về Truyền Thống Và Hiện Đại”
của Tiến Sĩ Thái Kim Lan (trích từ Thư Viện Hoa Sen 12-2006,
www.thuvienhoasen.org)
“Truyền thống” do đó bao gồm phương thức thực hiện cho được sự chuyển tiếp sức sống hiện đại cho thế hệ hiện tại và tương lai. Ðó là ý nghĩa sinh động của truyền thống, chống lại mọi khuynh hướng rập khuôn, sao chép sáo rỗng cũng như khuynh hướng bắt chước, lặp lại, tùy tiện sử dụng nhầm lẫn loại hàng phế thải "second hand“ thay thế sản phẩm văn hóa đầu tay. Chính nghệ thuật giữ được ngọn lửa truyền thống văn hóa đem đến ý nghĩa sinh động cho khái niệm truyền thống như Thomas Morus (tác giả cuốn Utopia, 1478-1535) nhận chân:
"Truyền
thống không có nghĩa gìn giữ đống tro,
Mà
là chuyển tiếp ngọn lửa”.
Hồi tưởng lại mấy năm trời, từ những ngày mẹ bắt đầu già yếu, qua đến bệnh tử, lòng tôi dào dạt niềm biết ơn Tam Bảo. Không có ngọn đèn của Chánh Pháp chắc hẳn tôi và các anh chị em trong gia đình sẽ bi ai sầu thảm vô ích, không biết quán chiếu:
Thân
này từ đâu tới
Thân
mất ta về đâu
Mỗi
sáng, trưa chiều tối
Hãy
tự hỏi vì sao
Sinh
diệt trong hơi thở
Sống
chết như trò chơi
Hết
thành rồi đến hoại
Là
chân lý muôn đời…
Như
nước sông chảy mau
Qua
rồi không trở lại
Đời
người cũng như vậy
Nuối
tiếc nào được đâu…
(Kinh
Pháp Cú Thí Dụ,Việt dịch TT Thích Minh Quang)
Tôi nghe như có tiếng mẹ cùng tôi đọc:
….Chư
Bụt trong ba đời, y diệu pháp trí độ Bát Nhã Ba La Mật. Vậy nên phải biết rằng Bát Nhã Ba La Mật là linh chú đại
thần, là linh chú đại minh, là linh chú vô thượng, là linh
chú tuyệt đỉnh, là chân lý bất vọng, có năng lực tiêu
trừ tất cả mọi khổ nạn. Cho nên tôi muốn thuyết
câu thần chú trí độ Bát Nhã Ba La Mật. Nói xong đức
Bồ Tát liền đọc thần chú rằng: Gate, Gate, Paragate, Parasamgate,
Bodhi Svaha, Gate, Gate, Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha, Gate, Gate,
Paragate, Parasamgate, Bodhi Svaha
Mẹ
ơi, thôi mẹ an lành đi về cõi tịnh nhé mẹ!