“Trang
sử Phật
Đồng
thời là trang sử Việt
Trải
bao độ hưng suy
Có
nguy mà chẳng mất”.
Trong
mấy ngàn năm đạo Phật tồn tại ở Việt Nam, mặc dù chịu
ảnh hưởng nhiều của Phật giáo Trung Hoa, nhưng Phật giáo
Việt Nam vẫn giữ được bản sắc của mình, chính là nhờ
khéo thích ứng với hoàn cảnh lịch sử địa lý và văn hóa
của dân tộc, biến thành một cái gì gần gũi nhất, thân
thương nhất của dân tộc Việt Nam, của con người Việt
Nam, của đất nước chúng ta, mà một nhà thơ đã ca ngợi.
“Mái
chùa che chở hồn dân tộc,
Nêp
sống muôn đời của tổ tông”.
Rất
đẹp hình ảnh hồn dân tộc, nếp sống truyền thống của
tổ tiên ta được che chở bởi ngôi chùa, bởi đạo Phật
ở nông thôn. Nếp sống và nhịp sống của bà con nông dân
từ một thời rất xa xưa đã quyện chặt với nếp sống
của nhà chùa, của Phật giáo. Và chất siêu tục, toát lên
từ nếp sống đó, hẳn đã giúp cho người dân Việt Nam,
khi cần, có thể vượt lên trên những cái tầm thường của
đời sống thế tục, như cái danh, cái lợi v.v. . . hướng
tới những giá trị tâm linh cao cả, mà nếu không có chúng
thì đời sống con người sẽ trở thành vô nghĩa.
Có
thể nói, một trong những đặc sắc rất tốt đẹp của đạo
Phật là khả năng thích ứng... của một tôn giáo cởi mở,
không hẹp hòi, không giáo điều cứng nhắc, tôn giáo của
trí tuệ và của tình thương, một tôn giáo thực sự nhân
bản, thực sự của con người.
Khi
đức Phật tuyên bố: “Này các Tỳ kheo, xưa cũng như nay,
Ta chỉ nói lên sự khổ và sự dứt khổ” (Trung Bộ I, 190).
Lời tuyên bố xác nhận tất cả lời dạy của Ngài đều
hướng đến mục đích duy nhất của Ngài là cứu khổ độ
sanh. Đức Phật lại khuyên các đệ tử xuất gia của Ngài:
“Hãy du hành vì hạnh phúc của quần sanh, vì an lạc cho quần
sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì an lạc
cho chư Thiên và loài Người” (Tương ưng I, 128).
Như
vậy, đại nguyện của đức Phật là làm vơi nổi thống
khổ của chúng sinh, đem lại hạnh phúc cho mọi loài mọi
người. Với trí tuệ, siêu nhiên, với thiên nhãn, thấu suốt
sự việc quá khứ, hiện tại, vị lai, Ngài quán triệt bất
hạnh và hạnh phúc của con người tùy thuộc vào hành động
thiện ác của con người. Ngài tuyên bố: “Ta đã thấy các
chúng sinh thành tựu thân làm ác, thành tựu lời nói ác, thành
tựu ý nghĩ ác, chỉ trích các bậc Thánh, có tà kiến, chấp
nhận các nghiệp bị tà kiến chi phối. Sau khi thân hoại mạng
chung, chúng bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục
(Kinh Thuyết Như Vậy, số 71)”. Ngài lại tuyên bố thêm:
“Ta đã thấy, này các Tỳ kheo, các chúng sinh thành tựu thân
làm thiện, thành tựu lời nói thiện, thành tựu ý nghĩ thiện,
không chỉ trích các bậc Thánh, có chánh kiến, chấp nhận
các nghiệp được chánh kiến chi phối, sau khi thân hoại mạng
chung, được sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này
(Kinh Phật Thuyết Như Vậy số 72)”. Một lời dạy tiếp
liên hệ giữa đạo đức và hạnh phúc cho người và cho chính
mình: “Thành tựu năm pháp Tỳ kheo đem lại hạnh phúc cho
mình, và hạnh phúc cho người. Thế nào là năm? Vị Tỳ kheo
tự mình đầy đủ giới hạnh và khuyến khích người khác
đầy đủ giới hạnh, tự mình đầy đủ Thiền định và
khuyến khích người khác đầy đủ Thiền định, tự mình
đầy đủ trí tuệ và khuyến khích người khác đầy đủ
trí tuệ, tự mình đầy đủ giải thoát và khuyến khích người
khác đầy đủ giải thoát, tự mình đầy dủ giải thoát
tri kiến và khuyến khích người khác đầy đủ giải thoát
tri kiến. Đầy đủ năm pháp này, này các Tỳ kheo, Tỳ kheo
đem lại hạnh phúc cho mình và cho người (Tăng Chi II, 20)”.
Đối với đức Phật, một đời sống có đạo đức là một
đời sống có hạnh phúc, một đời sống có hạnh phúc là
một đời sống có đạo đức.
Nếp
sống mà đức Phật giới thiệu cho chúng ta không phải là
cuộc sống phóng dật, buông thả, chạy theo dục lạc thấp
hèn, cũng không phải là cuộc sống ép xác, khổ hạnh một
cách vô ý thức. Đức Phật dạy chúng ta theo một nếp sống
trung đạo, không ham mê dục lạc, không ép xác khổ hạnh.
Đối với Phật tử tại gia, đức Phật giới thiệu một
nếp sống theo năm giới và mười điều thiện. Sống theo
năm giới, mười điều thiện là sống an lạc và hạnh phúc.
Sống
theo năm giới, mười điều thiện là sống có ích, có cống
hiến thật sự về nhiều mặt cho bản thân, gia đình và xã
hội.
Theo
đạo Phật, sống theo năm giới, mười thiện còn là điều
kiện cơ bản để được sống xứng đáng như con người,
và sau khi chết sẽ được tái sinh làm Người hoặc làm loài
Trời.
Đức
Phật khuyên các Phật tử tại gia nên sống giữ năm giới,
làm mười điều thiện để: “Ngay trong hiện tại không khởi
tâm khổ, tâm ưu, trong khi lâm chung tâm không rối loạn, và
sau khi mạng chung, được sanh thiện thú, thiên giới”. Kinh
Hiền Ngu (Trung Bộ III, số 129) nêu rõ: “Một người dùng
ác tư duy, nói lời ác ngữ, hành ác hạnh, ngay trong hiện
tại, cảm thọ ba loại khổ ưu; thấy người ta hội họp
bàn tán, sợ rằng họ đang bàn tán phê bình ác nghiệp của
mình. Thấy có kẻ bị gia hình vì tội phạm, hoảng hốt lo
sợ sắp đến phiên mình bị gia hình vì những tội lỗi của
chính mình. Người làm điều ác luôn luôn bị tội ác của
mình ám ảnh theo dõi đè nặng trên lương tâm của mình, như
khi vào buổi chiều, bóng các đỉnh núi treo nằm, treo áp,
treo đè trên đất”.
Kinh
Đại Niết Bàn số 16 Trường Bộ nói lên năm điều nguy hiểm
của người gia chủ nếu phạm giới, sống trái giới luật.
Một là sẽ bị tiêu hao tiền bạc, rất nhiều vì phóng dật.
Hai là bị tiếng dữ đồn xa. Ba là đi vào hội chúng nào,
đi vào với tâm thần bối rối. Bốn là khi mạng chung sẽ
bị chết với tâm hồn rối loạn. Năm là sau khi mạng chung
sẽ bị sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.
Trái
lại, người giữ giới có được năm sự lợi ích. Một là
sự có tiền của dồi dào vì sống không phóng dật. Hai là
tiếng tốt đồn xa. Ba là đi vào hội chúng nào, tâm thần
không có sợ hãi, không có bối rối, bốn là khi mạng chung,
chết với tâm không rối loạn. Năm là sau khi mạng chưng sẽ
sanh vào thiện thú, thiên giới, cõi đời này.
Đức
Phật răn dạy chúng ta như sau: “Này các Tỳ kheo, trong cõi
Diêm Phù Đề này, số ít là các khu vườn khả ái, các khu
rừng khả ái, các vùng đất khả ái các hồ ao khả ái. Nhưng
nhiều hơn là các chỗ đất cao đất thấp, các con sông khó
lội qua, các khu vực rậm rạp gai góc, các núi non lởm chởm.
Cũng vậy này các Tỳ kheo, số ít là các chúng sinh sau khi
chết từ loài Người được tái sinh lại trong loài Người,
còn nhiều hơn là các chúng sinh sau khi chết từ loài Người
bị tái sinh ở địa ngục, ở các loài bàng sinh, ở cõi ngạ
quỷ”. (Tăng Chi I, 47 - Tương ưng V - 406).
Tại
sao vậy? Chúng ta tự hỏi. Chúng ta chỉ cần nhìn hiện trạng
của thế giới một cách vô tư, chân thực và khiêm tốn sẽ
rõ, số ít là người sống theo năm giới, mười điều thiện.
Số nhiều là những người không sống theo năm giới, mười
điều thiện. Số nhiều là những người làm các điều ác
và bất thiện. Số nhiều là những người sát sanh và khuyến
khích sát sanh, thích thú sát sanh. Ở khắp các nước, chiến
tranh đẫm máu kéo dài, dù là cục bộ. Số nhiều là những
người làm giàu bất chính, giàu lên nhờ buôn bán gian lận,
buôn lậu, buôn hàng giả, nhờ tham ô, tham nhũng v.v. . . Số
nhiều là những người sống tà hạnh, tà dục. Chỉ vì cuộc
sống tình dục không hạn chế, và theo quy luật bù trừ của
thiên nhiên, gần đây xảy ra tai họa bệnh sida mà chưa có
phương thuốc nào của y học hiện đại chữa trị được.
Số nhiều là người nói dối, nói lời chia rẽ, độc ác,
nói lời phù phiếm. Chỉ bằng lời nói người ta có thể
giết không phải là một mạng người mà là hàng vạn mạng
người một lúc. ấy thế mà có người vẫn cho rằng: lời
nói bay đi, khẩu thuyết vô bằng? Cuối cùng, số nhiều là
người uống rượu, nghiện thuốc, thích chất say. Không chỉ
say rượu say thuốc mà còn say cả danh lợi, say nữ sắc, say
quyền lực...
Con
người sống ở đời, làm đủ mọi điều ác mà lòng vẫn
dững dưng như không có chuyện gì xảy ra, là bởi vì họ
không được nghe lời Phật dạy. Đấy thật là điều bất
hạnh. Sau khi chết, họ sẽ phải tái sanh vào những cõi khổ,
sẽ phải chịu đựng nhũng nỗi khổ mà ở cương vị làm
người họ không thể nào ý thức được, tưởng tượng được.
Kinh
Phật cho biết, có ba cõi sống khổ mà những người không
sống theo năm giới, làm điều ác và bất thiện, sau khi chết
sẽ bị đọa và chịu đựng những nỗi khổ triền miên.
Đây là cõi địa ngục, cõi quỹ đói và cõi súc sanh.
Trong
ba cõi sống khổ đó, chỉ có cõi súc sanh, là ở trong tầm
mắt thấy của chúng ta mà thôi.
Ca
dao Việt Nam có câu :
“Làm thân trâu ngựa, xin đền kiếp sau”
Thấy
con trâu kéo cày, con ngựa kéo xe, chúng ta đã thấy khổ. Nhưng
con gà, con lợn khổ hơn, vì số phận của chúng là sẽ bị
người ta giết ăn thịt. Con dòi, con bọ chui rúc ở các ổ
rác, ổ phân chắc chắn còn sống khổ hơn nhiều. Nhưng ở
hai cõi địa ngục và quỹ đói, những nỗi khổ còn lớn
hơn gấp ngàn vạn lần. Chúng ta, người trần mắt thịt không
thấy được cảnh địa ngục, nhưng đức Phật với con mắt
Phật thấy rất rõ thế nào là cảnh giới địa ngục và
đức Phật đã từng kể về nỗi khổ ở địa ngục trong
kinh Hiền Ngu :
“Đức
Phật dạy :
“–
Cũng như muốn nói một cách đúng đắn về địa ngục, phải
nói rằng địa ngục không hoàn toàn tốt đẹp, hoàn toàn
không khả ái, hoàn toàn không thích ý.Về vấn đề này, này
các Tỳ kheo, cho đến một ví dụ cũng không dễ gì, vì rất
nhiều là sự đau khổ ở địa ngục.
“–
Khi nghe nói như vậy, một Tỳ kheo bạch Thế Tôn:
“–Bạch
Thế Tôn, Thế Tôn có thể cho con một ví dụ được không?
“Thế
Tôn đáp:
“–Có
thể được, này Tỳ kheo. Ví như Tỳ kheo, có người bắt
được một tên trộm cắp, và dẫn nó đến trước mặt vua
và thưa: “Tâu Đại vương, đây là một tên cướp phạm
tội. Hãy hình phạt nó như Đại vương muốn”. Vua nói: “Này
các Người hãy đi, và vào buổi sáng, hãy đâm người này
với 100 ngọn giáo”, và vào buổi sáng, họ đâm người này
với 100 ngọn giáo. Đến trưa, vua hỏi như sau: “Này các
Người, người ấy ra sao?”–“Tâu Đại vương, nó vẫn
còn sống”. Vua nói: “Này các Người hãy đi, và vào buổi
trưa, hãy đâm người này với 100 ngọn giáo”. Đến chiều,
vua lại hỏi: “Này các Người, người ấy ra sao?”–“Tâu
Đại vương, nó vẫn còn sống”. Vua lại nói: “Này các
Người, vào buổi chiều, hãy đâm nó với 100 ngọn giáo nữa”.
“Này
các Tỳ kheo, các Người nghĩ thế nào? Người ấy bị đâm
300 ngọn giáo, do nhân duyên ấy, có cảm thọ ưu khổ không?
“–Bạch
Thế Tôn, chỉ bị ngọn giáo đâm một lần, người kia do
nhân duyên ấy đã cảm thấy khổ ưu, còn nói gì đến 300
ngọn giáo.
“Rồi
Thế Tôn lượm một hòn đá, lớn bằng bàn tay và nói với
các Tỳ kheo:
“–Này
các Tỳ kheo, các ông nghĩ thế nào? Cái gì lớn hơn, hòn đá
này to bằng bàn tay do Ta lượm lên, hay là núi Tuyết
Sơn vua các loại núi?”
“–Thực
là quá nhỏ, bạch Thế Tôn, hòn đá này bằng bàn tay do Thế
Tôn lượm lên, so sánh với núi Tuyết Sơn, vua các loại núi,
thực không đáng kể gì, không bằng một ngàn vạn lần, không
thể so sánh được”.
“–Cũng
vậy, này các Tỳ kheo, người ấy bị đâm 300 ngọn giáo,
do đó cảm thấy khổ ưu. Nhưng khổ ưu ấy so với khổ ưu
ở địa ngục, không đáng kể gì, không bằng một phần ngàn
vạn lần, không thể so sánh được”.
Đức
Phật, vị Bổn Sư của chúng ta bao giờ cũng nói lên lời
chân thực, lời có ích. Ngài là bậc Đại trí tuệ, là bậc
Đại từ bi. Chính vì lòng thương tường đối với, đối
với chúng ta mà Ngài mô tả cảnh địa ngục, là nơi có những
cảnh khổ cực vô cùng đang chờ đợi những kẻ không sống
theo năm giới, làm nhiều điều ác và bất thiện ở đời
này.
Chúng
ta là đệ tử Phật, là con Phật, chúng ta hãy tin tưởng ở
lời răn dạy của Ngài, chúng ta hãy nguyện sống thiện, sống
lành, sống theo năm giới, mười điều thiện, thì hạnh phúc
đến với chúng ta hiện tiền, ngay trong đời này, và hạnh
phúc hằng trăm ngàn lần tốt đẹp hơn sẽ chờ đợi chúng
ta ở các cõi sống về sau.
Lợi
ích thiết thực và hiện tại của nếp sống Phật giáo là
đảm bảo cho chúng ta một tâm hồn trong sáng và thanh thản,
là điều kiện tiên quyết của mọi sự hưởng thụ đích
thực, kể cả hưởng thụ những niềm vui thế tục.
Trong
nhân gian có câu: “ăn thịt bò lo ngay ngáy, ăn cua cáy ngáy
kho kho”. Ăn thịt bò mà tâm có lo âu vì những điều bất
thiện, điều ác mình đã làm, thì làm sao hưởng được hương
vị thơm ngon của thịt bò, thậm chí ăn chả buồn ăn, ngủ
không buồn ngủ, vì người không giữ giới, luôn ở trong
tâm trạng lo âu.
Đối
với đạo Phật, sống đạo đức, giữ tâm hồn trong sáng
và thanh thản, đó là bí quyết của hạnh phúc và an lạc.
Đạo
Phật thực ra không phải chống sự làm giàu, khi thuyết pháp
cho ông Cấp Cô Độc là vị nam thí chủ lớn nhất đối với
Tăng chúng trong thời đức Phật tại thế, đức Phật có
nói tới cái vui của người có tiền của, giàu có nhờ lao
động chính đáng, lương thiện, cái vui của người có tiền
của và biết dùng tiền của đó để làm điều thiện, cái
vui của người không có nợ nần và cuối cùng là cái vui
của người sống thiện, không bị lương tâm khiển trách.
Và trong bốn cái vui nói trên, đức Phật khẳng định cái
vui của người sống thiện, không bị lương tâm khiển trách
là cái vui lớn hơn cả. Vì sao? Vì rằng chỉ có người sống
thiện, không bị lương tâm khiển trách mới có được cái
tâm thanh thản để hưởng thụ mọi niềm vui khác, vật chất
cũng như tinh thần.
Chính
vì lẽ đó, mà vua Trần Nhân Tông trong bài “Cư Trần Lạc
Đạo Phú, đã nói rằng: Đối với người sống đạo đức
thì dù sống trong nửa gian lều cũng không khác gì sống trên
lâu đài ở cõi Trời v.v...