NHÀ SƯ TRẺ GỐC VIỆT THỌ GIỚI TỲ KHEO TÂY TẠNG
Xuân Đinh Hợi này, đức
Đạt Lai Lạt Ma sẽ làm lễ
thọ giới Tỳ Kheo cho một vị sư rất trẻ. Trước đó, cũng Ngài đã đích thân làm lễ
thọ giới Sa Di và
Cụ Túc cho
nhà sư. Đây là điều
đặc biệt vì
nhà sư là người đầu tiên rời Hoa Kỳ qua
Ấn Độ xuống tóc trong một
tu viện Tây Tạng vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, khi mới 12 tuổi.
Đặc biệt hơn nữa, đây là người
Việt Nam đầu tiên được
truyền thừa trong lịch sử hơn ngàn năm của
Phật giáo Tây Tạng. (Hình bên phải là
Hoà thượng Geshe-la và
nhà sư Việt Nam Kusho)
Sinh tại Quận Cam, ở miền Nam California trong một
gia đình khá giả, lên tám tuổi, cậu bé họ Phạm đã muốn
trở thành một Geshe
Tây Tạng.
Mà Geshe là gì?
Geshe là học vị trong
hệ thống Phật giáo Tây Tạng, tương đương với bằng
Tiến sĩ về
Phật học của
Tây phương.
Bình thường ra thì phải mất hai chục năm mới xong và nhiều người không xong nổi.
Thế giới hiện chỉ có chừng 200 vị Geshe thôi.
Muốn được thành một Geshe thì phải
thấm nhuần năm ngành học là
Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita),
Trung quán luận (Madhyamika),
Giới luật (Vinaya),
A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và
Lý luận căn bản (Pramana Vidya).
Thấm nhuần ở đây là phải
nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm
tu tập gian nan, hầu có thể
ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi
chủ đề trong các cuộc khảo hạch
thường xuyên và từ đó đi
hoằng pháp cho
nhân thế.
Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa và trung bình thì phải sáu năm mới lên tới cấp tối ưu.
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay, Kyabje Lati Rinpoche, được Đức
Đạt Lai Lạt Ma yêu cầu hướng dẫn chú bé gốc Việt họ Phạm
Vị
cao tăng Tây Tạng đã hướng dẫn chú bé họ Phạm là một Lharampa Geshe, một
hóa thân của
danh tăng Gongkar Rinpoche.
Ngài được tôn là
châu báu trong hàng
Thánh tăng Tây Tạng ngày nay,
pháp danh là Kyabje Lati Rinpoche, hiện là
cố vấn về
Lý luận (Tsen-shabs) của đức
Đạt Lai Lạt Ma.
Môn sinh của Tulku Lati Rinpoche thường chỉ là những
nhà sư được
xác nhận là
báo thân của một
cao tăng, một
vị đạo sư, một guru từ
kiếp trước nguyện
tái sinh để
tiếp tục hạnh nguyện.
Và đức
Đạt Lai Lạt Ma là người trực tiếp
yêu cầu Tulku Lati Rinpoche
dìu dắt chú bé.
Vì sao một chú bé sinh trong một
gia đình Việt Nam tại Hoa Kỳ lại được nhận vào
tu viện Tây Tạng, rồi được chính đức
Đạt Lai Lạt Ma trao phó cho một vị
cao tăng hàng đầu của Ngài việc hướng dẫn
tu học đó?
Có
lẽ phải đi từng bước để nhìn ra
con đường học đạo của vị tăng người Việt này.
Với người
Tây Tạng, đức
Đạt Lai Lạt Ma là
hóa thân của
Đại từ Đại bi Bồ tát Quán Thế Âm.
Việt Nam ta quen gọi vị
Bồ tát ấy là Phật
Quan Âm,
vì vậy, nhiều người cũng gọi Ngài là Phật Sống
Tây Tạng. Người
Tây Tạng tôn Ngài là "Kundun" với
ý nghĩa ấy.
Trong
hệ thống Phật giáo Tây Tạng, một
Lạt Ma được coi là
hiện thân của Phật, và
Bồ tát nguyện tái sinh để
cứu độ chúng sinh. Bậc
hóa thân ấy được tôn là Tulku ("Chu cô" theo cách phiên âm Hán-Việt).
Danh hiệu Lạt Ma chỉ được dành cho những người giảng dạy
giáo pháp và có
thẩm quyền thực hành nghi lễ của
Phật giáo. Trong số những người được
chứng nhận là
Lạt Ma, những vị
uyên thâm và cao quý nhất thì được tôn là Rinpoche (nghĩa là "vô cùng quý báu"). Trong hàng giáo phẩm và triều đình
Tây Tạng, người ta thấy nhiều
cao tăng được tôn vinh là Rinpoche.
Bây giờ,
chúng ta có đức
Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 - một vị Phật Sống -
ủy thác cho một Tulku Rinpoche việc
dẫn đạo cho một
nhà sư trẻ của
Việt Nam...
Nhà sư này phải có gì
đặc biệt mà có lẽ người thường như
chúng ta chưa thấy hết được.
Cách đây bốn năm, nhật báo Orange County Register đã gửi một
phái đoàn gồm hai nhà báo Anh Đỗ và Teri Sforza cùng đoàn nhiếp ảnh và truyền hình qua tận
Ấn Độ để làm loạt phóng sự bốn kỳ về
chú tiểu họ Phạm này. Người ta có
thể tham khảo loạt bài được
biên tập và trình bày
công phu dưới tựa đề "The Boy Monk" tại trang nhà của tờ báo trong bốn số ra ngày 19 đến 22 tháng Giêng 2003.
Từ ngày đó
đến nay, việc
tu học của
nhà sư này đã có sự
tăng tiến.
Một người Mỹ
xuất gia sang
Ấn Độ tu Phật giáo đã là hiếm, nhưng
vẫn có. Một người sinh tại Mỹ - thuộc
thế hệ thứ nhì vì
cha mẹ là người Việt tỵ nạn - thì lại hiếm hơn. Đây lại là người Mỹ đầu tiên được nhận vào
tu viện Tây Tạng Gaden Shartse, trong tỉnh Mundgod của tiểu bang Karnataka ở miền Nam
Ấn Độ để được
tu học thành
Sa di. Tên Mỹ-Việt Donald Phạm đổi thành Konchog Osel. Người thân thì gọi là Kusho. Konchog có nghĩa là hiếm quý, Osel là tịnh quang, ánh sáng trong lành, và Kusho là một
cao tăng.
Thế rồi, sau khi khảo hạch thì chính Tulku Lati Rinpoche đã thỉnh đức
Đạt Lai Lạt Ma làm lễ
thọ giới Cụ túc cho
chú tiểu sa môn. Có mặt trong
buổi lễ cử hành vào đúng ngày
Phật Đản còn có bốn vị Rinpoche khác. Chú được ban
pháp danh là Tenzin Drodon, nghĩa là "Người nắm giữ Phật pháp" (Tenzin) "cứu độ chúng sinh" (Drodon). Drodon là một
pháp danh ít có trong
hệ thống Tăng già Tây Tạng.
Ngày nay,
Phật giáo Tây Tạng có một
nhà sư dung mạo sáng rỡ, nói sành sõi tiếng Việt, tiếng Anh và tiếng
Tây Tạng với phương ngữ
quý phái của Kinh đô Lhasa, ở bên kia đỉnh núi tuyết ngàn trùng. Vào
mùa Xuân Đinh Hợi 2007, ở tuổi 21, Kusho sẽ
thọ giới Tỳ kheo với đức
Đạt Lai Lạt Ma, một điều kỳ lạ nữa.
Trong lịch sử Tây Tạng, đây là người Việt đầu tiên được chính đức
Đạt Lai Lạt Ma truyền thừa và
truyền giới.
Có thể là sau này người ta mới được biết thêm rằng
nhà sư trẻ cũng là
hóa thân của một
hành giả, nguyện
tái sinh trong một
gia đình Việt Nam tại Mỹ và
tu học trong
tu viện Tây Tạng tại Ấn
vì lợi ích của
chúng sinh. Ba vị
cao tăng đã
lần lượt hướng dẫn
nhà sư là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen tại
tu viện ở Long Beach, là Lharampa Geshe Lati Rinpoche, một vụ Tulku tại
tu viện Gaden Shartse ở
Ấn Độ và đức
Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14.
Bây giờ,
chúng ta mới
tìm hiểu về nhân vật này.
Vừa ra đời, Donald Phạm đã
chững chạc như người lớn. Chú bé là
học sinh ưu tú, thích
âm nhạc, viết văn, trượt nước và chơi Nitendo! Là học trò giỏi tại trường Aliso Viejo Middle School, chú bé đủ thứ game trong nhà và thừa
điều kiện thành công trong một môi trường đầy cơ hội là Hoa Kỳ.
Ước nguyện ban đầu của chú là thành nhà văn hay
bác sĩ. Nhưng, khác mọi đứa trẻ cùng tuổi, chú
ít nói, kín đáo nhìn mọi sự chung quanh và
đặc biệt quan tâm đến người khác.
Cha mẹ chú là những người khá giả và chăm sóc kỹ lưỡng
tâm hồn các con. Mẹ chú sùng
đạo từ khi còn ở
Việt Nam. Tại Hoa Kỳ thì cả
gia đình thường đến ngôi chùa
Tây Tạng ở Long Beach, do đức
Đạt Lai Lạt Ma đặt tên là Thubten Dhargye Ling, để
tu học Phật pháp. Đây là một việc không dễ vì từ nhà đến chùa là 90 cây số và một tuần,
gia đình lên chùa ba lần.
Donald vào chùa là có
phản ứng khác lạ. Tưởng đứa con lơ đãng nhìn quanh, bà mẹ
ngạc nhiên vì chú
nghe được hết và nói lại
rành mạch những khái niệm rất lạ.
Thí dụ như
hiện tượng "tâm viên ý mã" trong lúc thiền định! Người lớn nghe đã thấy khó
lãnh hội, huống hồ một đứa trẻ ở tuổi mẫu giáo!
Năm chú lên bốn, bà mẹ đọc báo thấy có tin là
vị Đạo sư Lati Rinpoche sẽ đến
thuyết pháp ở Los Angeles. Quá mừng khi được cơ hội gặp vị
cao tăng mà mình đã đọc lời giảng trong sách từ khi còn mang thai chú bé, bà dẫn chú đi nghe và năm đó Donald đã
quy y với Tulku Lati Rinpoche!
Khi chú lên năm, cô em kém chú hơn một tuổi bỗng khóc òa vì làm vỡ cái đĩa. Chú bé đứng cao hơn quầy bếp đã
lên giọng trấn an: "Đừng lo, đó chỉ là đồ vật thôi. Nếu chấp vào vật nhỏ như
vậy thì khi chết, làm sao cái tâm bỏ được cái thân này?"
Rồi sau đó, thay vì là nhà văn hay
bác sĩ, năm lên tám, chú muốn thành một Geshe!
Thấy con mình có ý đi tu để thành Geshe, bà mẹ trình bày với vị
Hoà thượng trụ trì tu viện Phật giáo Tây Tạng tại Long Beach là Lharampa Geshe Tsultim Gyeltsen, thường được
Phật tử quý mến gọi là Geshe La.
Hoà thượng Geshe La khuyên là hãy
kiên nhẫn tìm hiểu tâm tư chú bé đã. Cho con vào chùa là chuyện thường tình ở Á châu và
Tây Tạng, nhưng
chúng ta đang ở tại Hoa Kỳ, trong một khu vực trù phú
lịch sự.
Con đường tới chùa là một chặng đường khá xa
cần phải tìm hiểu. Mà cách
tìm hiểu hay nhất là chính họ phải qua tận
Ấn Độ thăm viếng một ngôi chùa
Tây Tạng đủ lâu để thấy hết tận mắt. Thày dạy,
tu viện là một
đại dương, có rất nhiều ngọc
nga châu báu vật đấy nhưng cũng có cá mập.
Hãy
tìm hiểu rồi mới
quyết định cho chú bé.
Khi Donald Phạm lên chín, năm 1995,
cha mẹ chú
quyết định sang thăm
tu viện, cách đó đúng là vạn dậm.
Bước đầu là từ California bay qua
Ấn Độ, rồi đi xe buýt leo đèo băng suối tới một
tu viện trong khu định cư của người
Tây Tạng tại Mundgod, thuộc tiểu bang Karnatala ở miền Nam
Ấn Độ. Đó là
tu viện Gaden Sharte của dòng Gelugpa
Phật giáo Tây Tạng.
Khu vực định cư cho dân tỵ nạn thường không là một vùng đất trù phú
thịnh vượng. Sự
nghèo khổ và
thiếu thốn là
quy luật chung. Huống hồ là nơi
tu hành. Người viện trưởng của
Tu viện chính là ngài Tulku Lati Rinpoche mà
gia đình họ Phạm đã đọc rồi đã gặp tại Los Angeles.
Phép
sinh hoạt nơi đây là sự khắc khổ nghiêm ngặt.
Mọi người thức giấc từ năm giờ sáng,
chư tăng áo đỏ
tụng kinh đến bảy giờ rồi ăn sáng. Thực đơn khác hẳn bữa
điểm tâm trong một ngôi nhà khang trang ở Laguna Niguel tại California. Bánh mì chấm trà có pha đường, bơ tẩm muối. Sau đó là học
ngôn ngữ và
tranh luận đến trưa. Quá ngọ là buổi học với các
đạo sư cho đến chiều. Cơm tối là cháo. Xong cơm là học tiếp về
Phật pháp qua
tranh luận, có khi đến nửa đêm...
Giáo trình
đào tạo còn nặng hơn mọi trường tư thục
ưu tú nhất của Mỹ! Và không có các màn
giải trí qua truyền hình, chơi game, nghe nhạc từ DVD... Cũng không có quà vặt, máy giặt máy xấy, nước nóng phòng riêng...
Làm sao cho con mình vào sống nơi đó?
Gia đình ở lại sáu tuần và chú Donald Phạm
cho biết là muốn
học đạo ở nơi đây.
Trường hợp của chú
hiển nhiên đã được Geshe La và Tulku Rinpoche chú ý. Phải tìm lời giải trong phép khảo chứng
bí truyền của
Tây Tạng. Vị
cao tăng thực hiện buổi lễ linh thiêng ấy chính là Tuku Rinpoche. Lời giải là chú bé này là một đứa trẻ
đặc biệt, sẽ vào chùa thành một vị sư
Tây Tạng. Donald Phạm cũng
cảm thấy như vậy.
Việc cháu Donald muốn đi tu đã gây nhiều
phản ứng và
tranh luận trong đại
gia đình. Đầu tiên thì chị và em không muốn xa Donald. Còn ông ngoại thì
hoàn toàn không vui! Điều ấy cũng thật
dễ hiểu. Nhưng ý của chú đã quyết và
cha mẹ cũng
thông cảm và hỗ trợ nên
mọi người quen dần với
quyết định này.
Gần bốn năm
trôi qua, rồi vào dịp Tết Kỷ Mão 1999, cả
gia đình Donald Phạm đã theo
Hoà thượng Geshe La qua
Ấn Độ. Chú sẽ ở lại nơi đây.
Tết Nguyên đán Kỷ Mão thì xuống tóc,
trở thành Sa di Kusho Konchog Osel.
Tu viện có 1.500 người cùng học nhưng chú được chính đức
Đạt Lai Lạt Ma ân cần phó thác cho vị Viện trưởng Tulku Lati Rinpoche trực tiếp hướng dẫn.
Mọi người ân cần gọi chú là Kusho-la.
Hai năm sau, Kusho được đưa lên Dharamsala, miền cực Bắc
Ấn Độ, vào học
viện Lý luận
Phật giáo, Institute of Buddhist Dialectics. Có 300 sinh viên, học viện này nằm gần thị trấn McLeod Ganj của Ấn. Thị trấn được gọi là "Little Lhasa", trụ sở của Chính quyền
Lưu vong Tây Tạng, và học viện IBD là nơi đức
Đạt Lai Lạt Ma thường
giảng pháp.
Trong học viện, tiểu
Sa di Kusho là người trẻ nhất và được chú ý vì khả năng
lãnh hội lẫn
tranh luận. Chú còn được khen là từ tốn khiêm nhường và thường
trầm lặng trước mối
quan tâm của
truyền thông báo chí. Nhiều người đã luận rằng Kusho có
thiện nghiệp để
trở thành sư, và có phúc duyên được hướng dẫn bởi những vị
cao tăng để
theo đuổi Phật học đến chỗ
thâm sâu.
Ngày nay, Kusho đã thành một vị sư 21 tuổi, và Xuân này sẽ
thọ giới Tỳ kheo với chính đức
Đạt Lai Lạt Ma, thành Shakya Bikshu Tenzin Drodon.
Trong khi ấy,
gia đình ở nhà cũng thay đổi.
Càng
luống tuổi, ông ngoại của Kusho càng thấy ra hai lẽ. Phần mình, thì
đời người quả là hữu hạn. Phần cháu ngoại Donald, thì việc cháu
trở thành sư là một điều lành.
Đầu năm 2007, ông cụ lâm trọng bệnh và từ
Ấn Độ, Kusho
trở về thăm ông, có thể là lần cuối. Hai ông cháu
gặp nhau trong một
cảnh ngộ cảm động.
Được hỏi về chuyến
thăm viếng,
nhà sư trẻ
giải thích là vì muốn
cầu nguyện cho tâm của ông ngoại được
thảnh thơi, vững mạnh, và
buông xả hết mọi
ưu phiền.
Kusho không tin là mình có "thần lực" hay khả năng
hộ niệm để ông "siêu sinh tịnh độ" như ta thường nói. Cháu chỉ muốn gặp ông, hàn huyên để ông vui với
tuổi già, có cái nhìn
lạc quan tích cực về mọi chuyện. Riêng mình, thì đứa cháu rất
cảm động nghe ông nói, rằng mình mừng cho cháu đã đi tìm
hạnh phúc trong sự
tu tập, vì
hạnh phúc thật là khi mưu cầu cho
hạnh phúc của người khác. Hai ông cháu đã
hoàn toàn cảm thông và cùng nhìn vào một hướng.
Nói đến chuyện "thần lực" hay "hóa thân", đề tài
kỳ diệu khi ta nghĩ đến
Phật giáo Tây Tạng, Kusho cười hiền hoà và
giải thích bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh: Không, chú không là
hoá thân hay đang
tu tập để có
thần lực thi hành được những việc
siêu nhiên. Việc
tu tập để tìm
thần lực hay khả năng
siêu nhiên là điều sai.
Nhưng, khi
tu tập, Kusho thấy hay nghĩ "mình là ai?" Là một chú bé
Việt Nam, một
thiếu niên Mỹ hay một
Sa di Tây Tạng - Là tất cả!
Ban đầu, khi ở trong
Tu viện Gaden thì còn
mơ hồ vì có lúc thấy mình là một
thiếu niên Mỹ, một đứa trẻ
Việt Nam, và nhất là khác lạ với
chúng bạn người
Tây Tạng chung quanh. Thế rồi một cách
tiệm tiến và nhẹ nhàng
tự nhiên, chú thấy mình tách rời với tất cả những "hành trang" ấy của
quá khứ mà cảm
nhận ra một
sự thể gì bao nhiếp tất cả. Một sự
an nhiên kỳ lạ khiến mình thấy
thư thái và
tự do hơn.
Cảm giác gọi là "giải thoát" ấy
xuất phát từ sự
tu tập hay
từ ý chí của mình? - Có lẽ, phép
tu tập giúp cho
ý chí ấy thành vững mạnh hơn và quan trọng nhất, giúp cho mình thấy được cách
suy nghĩ tích cực và
nuôi dưỡng nghị lực tích cực.
Kusho
suy nghĩ rồi nói bằng tiếng Anh: "Positive Energy"
Nhưng, trong
tu viện Gaden hay trong học viện ở Dharamsala,
Sa môn Kusho có biết hay được biết gì về
thế giới bên ngoài không, về "đời sống thật" không?
Ban đầu, trong
tu viện thì chỉ học về
kinh điển và phép
luận giải, chứ qua học viện tại Dharamsala thì các học viên đều có thể xem truyền hình và đọc báo để biết về những gì đang xảy ra trên
thế giới. Chính đức
Đạt Lai Lạt Ma đã muốn các học viên
chứng đắc Phật pháp bằng cách hiểu được
cộng đồng và
thế giới.
Ngoài ra, giáo trình của học viện chẳng khác gì nhiều nếu so với một
Đại học tân tiến, học viên được
giáo dục để biết về
thế giới cũng như
Phật pháp.
Sau khi
hoàn tất khóa học rất dài tại Dharamsala, Kusho sẽ
trở lại tu viện Gaden và
lúc ấy mới lại sống như một vị tăng trong chùa.
Nhưng, khi biết rằng
thế giới này "khổ" - vì nạn đói ở Phi châu hay
khủng bố tại Trung Đông chẳng hạn - học viên nghĩ sao? Và muốn làm gì để
giải trừ cái khổ ấy?
Nhà sư trẻ
suy nghĩ giây lát mới
giải thích. Trước hết, những
tin tức ấy có
giá trị "khích lệ", là
yếu tố càng
thúc đẩy học viên phải
tu tập để góp phần
giải trừ cái khổ.
Nhưng, nhìn từ các
tu viện, cái khổ ấy có là một
ý niệm trừu tượng xa vời của "chúng sinh" hay của người khác không?
Thí dụ như một
bác sĩ vẫn có thể chữa chạy cho bệnh nhân sau khi học về những
triệu chứng hay
hậu quả của bệnh. Một nhà
xã hội cũng có thể học về khủng hoảng để góp phần
giải quyết dù mình chẳng là nạn nhân... Liệu cảm nhận về cái khổ này có là một khái niệm tách bạch xa vời vì không trực
tiếp liên hệ đến mình ở trong chùa hay trong học viện?
Kusho tìm chữ
diễn tả, cả Việt lẫn Anh, rằng sự
hiểu biết về cái khổ ấy
tác động rất mạnh vào
tâm trí, nhưng theo hướng khác.
Ý thức về những
vấn đề ấy khiến mình càng thêm
tin tưởng vào
Phật pháp và càng
thôi thúc mình làm một cái gì đó để cứu giúp người khác. Đây cũng là bước
cần thiết để
chứng nghiệm đức tin của mình.
Nếu
tu học để thành sư mà không nghĩ đến việc giúp đỡ người khác thì là một sự lãng phí!
Phật giáo Tây Tạng rất chú ý đến việc
tu dưỡng Bồ đề tâm, đến
Bồ tát hạnh và coi việc giúp đỡ người khác là một bổn phận
trọng yếu, một phần không thể tách rời trong đức
từ bi của người
Phật tử.
Nói đến người khác, Kusho có nghĩ đến người Việt và
Phật giáo Việt Nam không?
Vị
Sa môn trẻ này cám ơn mẹ cha là những
Phật tử đã khuyến khích và giúp đỡ mình trên
con đường học đạo. Chính là tấm lòng
yêu thương của bà mẹ đã khiến chú
cố gắng tu tập để có thể làm tròn bổn phận với
Việt Nam.
Vì vậy, sau giai đoạn
tu chứng,
nhà sư trẻ còn phải đi một bước rất xa là
học hỏi thêm về
Việt Nam và
Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo Tây Tạng theo
Kim cang thừa (Varayana) của
Đại thừa Mahayana, nhưng cũng
áp dụng phép tu có
đặc tính Mật tông và cả
Bồ tát hạnh trong những
giáo lý nền tảng của
Phật giáo Nguyên thủy Theravada.
Vì vậy, trong giáo trình
đào tạo và
tu học, các học viên đều phải
thấm nhuần những lý giải
Tiểu thừa hay
Nguyên thủy. Sau này, Kusho sẽ học thêm về những
đặc tính đa diện của
Phật giáo Việt Nam và phải
thông thạo tiếng Việt để
tiếp xúc với
Phật tử người Việt.
Một
con đường rất dài... Khi viết, Kusho
sử dụng cả hai tay, trái và phải, để viết chữ
Tây Tạng hay tiếng Anh. Khi học, có lẽ cũng phải nhớ đến tương lai là tìm đến
Phật giáo Việt Nam. Vả lại, chính đức
Đạt Lai Lạt Ma đã căn giặn như vậy.
Hôm đó, sau khi được Ngài
truyền giới, vị tiểu
sa môn được đức
Đạt Lai Lạt Ma gọi riêng ra chụp chung tấm hình. "Con giữ tấm hình này cho quê hương con. Cho nước Việt Nam". Kusho treo tấm hình trong
trai phòng tại học viện, như một nhắc nhở hàng ngày.
Việc
nhà sư Tenzin Drodon này sẽ
chứng đắc học vị Geshe có thể chỉ là
thời gian vì
tâm nguyện như vậy. Nhưng, việc một người có
tâm hồn và
giáo dục Việt Nam được
tu học thành
nhà sư Tây Tạng mới là một
hạnh ngộ hiếm hoi.
Lời khuyên của Tulku Lati Rinpoche là Kusho hãy
cố gắng tinh tấn tu học để
trở thành một
sa môn đầy đủ
Bồ tát hạnh là Bi, Trí, Dũng để
hoằng pháp lợi sanh cho
nhân thế. Đức
Đạt Lai Lạt Ma nói rõ hơn trong từng buổi gặp gỡ: "Đừng quên
Việt Nam.
Lòng từ bi và
trí tuệ của con sẽ giúp ích rất nhiều cho quê hương con."
Pháp danh Drodon quý hiếm này, có lẽ Ngài chọn cho Kusho để hướng tới
trách nhiệm với
Việt Nam.
Sông Mekong
xuất phát từ vùng đất Kham đã
tái sinh của hai vị
cao tăng Tây Tạng là Gehse La và Tulku Rinpoche. Nơi con sông này đổ ra biển chính là
Việt Nam.
Phải chăng, đức
Đạt Lai Lạt Ma đã thấy
vạn sự từ đầu nguồn
tiền kiếp, mà chưa đến lúc nói ra?
TÂM THÀNH (Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)
03-02-2007
Geshe-la
Hạt Mầm
Tây Tạng Thiện Duyên với
Phật Tử Việt Nam Đức
Đạt Lai Lạt Ma và
Hòa Thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach.
Cảm được lời
thỉnh nguyện và phong cách
đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ
nổi tiếng đã
quy y Phật pháp và
lên tiếng đấu tranh cho dân
Tây Tạng.
*
Đức
Đạt Lai Lạt Ma có hai vị
đại diện chính thức tại New York và Washington DC.. Riêng tại miền Tây nước Mỹ, người mà Ngài
tin tưởng và
quý trọng chính là
Hoà thượng Geshe Tsultim Gyeltsen tại Long Beach. Ngài gọi vị
Hoà thượng Geshe-la là hạt mầm quý của
Phật giáo Tây Tạng.
Geshe là đẳng trật tương đương với
Hoà thượng tại Đông Á, hay, theo lối duy lý
Tây phương, tương đương với học vị
Tiến sĩ về
Phật học của các vị
cao tăng.
Phật tử thương kính, gọi vị
Hoà thượng 84 tuổi tại Long Beach là Geshe La. Tiếp vĩ ngữ "La" đặt sau tên gọi hay
danh hiệu Geshe là để bày tỏ lòng
quý trọng.
Hình trên: Tài tử Richard Gere đến với
Phật giáo Tây Tạng.
Geshe Tsultim Gyeltsen là vị
cao tăng có
công đức rất lớn trong việc
quảng bá Phật giáo Tây Tạng và
ảnh hưởng rất rộng trong việc
vận động dư luận Hoa Kỳ. và
đặc biệt có
thiện duyên với
Phật giáo Việt Nam.
Từ đầu nguồn sông Mekong
Geshe-la sinh năm 1924 tại tỉnh Kham ở miền Đông
Tây Tạng.
"Ngôi làng tôi sinh ra chỉ cách nơi sông Mekong phát sinh có chừng cây số. Hồi còn bé, tôi vẫn thường ra chơi ở mạch sông đó". Thầy
tâm sư.
Từ nguyên ủy, Geshe-la đã có mối duyên với
Việt Nam. Con sông Mekong nối liền
Tây Tạng với
Việt Nam, nhưng phải qua một
không gian đại nghiệp do
Trung Quốc kiểm soát và khai thác!
Dưới thế danh là Jamphel Yeshe, Geshe-la đã vào chùa từ năm lên bảy. Thầy mất chín năm học
kinh điển, Sutra và Tantra, và học phép
biện chứng Phật giáo, rồi mới
dự tính lên
tu viện Sera gần Thủ đô Lhasa để đạt học vị Geshe của dòng Gelugpa.
Con đường từ
quê nhà lên kinh đô không dễ đi. Phải mất hơn một tháng, vượt 25 đèo mới tới Lhasa. Gần đến nơi, lần đầu tiên thấy
tu viện Gaden hùng vĩ trên đỉnh đồi, Thầy bỗng
ràn rụa nước mắt
cảm ngộ. Hôm ấy lại là ngày
thành đạo của vị
Thánh Tăng Lạt Ma Tsongkhapa (
Lạt Ma Tông Khách Ba) lừng danh
lịch sử Phật giáo.
Được coi là
hóa thân của đức
Bồ tát Văn Thù Sư Lợi, đức
Lạt Ma Tsongkhapa là nhà
cải cách Phật giáo của thế kỷ 14, đã
xây dựng bảo tháp và
nền móng của các
tu viện Drepung, Sera và Gaden và
sáng lập tông phái Gelugpa của
Phật giáo Tây Tạng.
Từ ngài Tsongkhapa, tiến trình
tu học của
Tỳ kheo là phải
nghiên cứu năm ngành "Ngũ minh" và kiểm nghiệm qua
Thiền định.
Hành trình tu tập của
tăng ni Tây Tạng ngày nay dựa rất nhiều vào những chỉ dạy của vị
Thánh tăng ấy.
Hôm đó, như được sự mặc khải,
Tu viện trưởng Kyabje Zong Rinpoche đã giữ Thầy ở lại và
thọ giới cùng Ngài. Geshe-la
học đạo mất hai chục năm trong trường Shartse của
Tu viện Gaden,
cho đến năm 36 tuổi. Đấy là khi
bùng nổ biến cố pháp nạn năm Kỷ Hợi 1959.
Ngày 10 tháng Ba năm 1959, dân chúng
Tây Tạng nổi dậy và Lhasa bị xâm chiếm. Trong chùa Gaden, Geshe Gyeltsen
nghe tin đức
Đạt Lai Lạt Ma đã phải rời
Tây Tạng. Cùng
sáu vị tăng khác, Thầy dâng lời khấn nguyện và nửa đêm vượt
Hy Mã Lạp Sơn tìm đường qua Ấn. Trong số hai chục ngàn vị
cao tăng của ba
Tu viện lớn nhất
Tây Tạng là Gaden, Sera và Drepung (đều do đức Tsongkhapa
thành lập mấy trăm năm trước), chỉ có một số ít như Geshe Gyeltsen là thoát ra ngoài.
Với chừng năm mươi vị
cao tăng của mỗi
Tu viện trên, Geshe Gyeltsen đã trú ngụ tại Dalhousie trên miền Bắc đất Ấn để
tiếp tục học thêm hai năm. Kỳ khảo hạch lần này tổ chức tại Dharamsala, dưới sự
chứng giám của đức
Đạt Lai Lạt Ma và của hai vị thầy đã hướng dẫn Geshe-la, là Kyabje Ling Rinpoche và Kyabje Trijang Rinpoche.
Thầy tốt nghiệp tối ưu,
trở thành Lharampa Geshe.
Cần nói thêm là muốn được thành một Geshe thì các thầy phải
thấm nhuần năm ngành học là
Bát nhã ba la mật (Prajnaparamita),
Trung quán luận (Madhyamika),
Giới luật (Vinaya),
A tỳ đạt ma luận (Abidharma) và
Lý luận căn bản (Pramana Vidya).
Thấm nhuần ở đây là phải
nhập tâm, bằng Tạng ngữ, trong vài chục năm
tu tập gian nan, hầu có thể
ứng đối tranh luận trong mọi tình huống về mọi
chủ đề trong các cuộc khảo hạch
thường xuyên và từ đó đi
hoằng pháp cho
nhân thế.
Đã vậy, từ thấp lên cao, học vị Geshe còn có bốn cấp là Dorampa, Lingtse, Tsorampa và cao nhất là Lharampa. Trung bình thì từ cấp Dorampa lên Lharampa, các thầy phải mất chừng sáu năm
tu đạo.
Hai năm sau, Geshe-la được đức
Đạt Lai Lạt Ma gửi đi
giáo dục cho dân
Tây Tạng lưu vong,
vận động thế giới cho đất nước
Tây Tạng và
truyền bá đạo Phật.
Từ Anh Quốc tới Hoa Kỳ
Năm 1963, quãng đường
hoằng pháp của Geshe-la khởi sự tại Sussex của nước Anh, nơi Thầy
đem theo 22 trẻ em
Tây Tạng,
đa số là cô nhi, và hướng dẫn các em về Tạng ngữ, văn hoá và
giáo lý đạo Phật. Ngôi vườn ươm cây đầu tiên tại Anh nay bắt đầu kết trái.
Sau nước Anh, nơi Thầy đến là Hoa Kỳ.
Năm 1976, Geshe-la qua Mỹ làm Giáo sư về Tạng ngữ và
Thiền quán tại các
Đại học University of Southern California (USC), University of California in Santa Barbara (UC Santa Barbara) và University of California in Los Angeles (UCLA). Năm 1978, Thầy lập ra một
trung tâm Phật giáo Tây Tạng, được chính đức
Đạt Lai Lạt Ma ban cho danh hiệu là Thubten Dhargye Ling, Đất
Hoằng Pháp.
Geshe-la trong
ni viện Gaden Choling tại miền nam
Ấn Độ.
Tại mảnh đất quý này ở Long Beach, Geshe-la hướng dẫn các lớp
Thiền quán và giảng dạy
Phật pháp cho
mọi người. Ngoài việc giảng huấn và
thuyết pháp, Thầy còn viết sách và mở ra nhiều
trung tâm tại miền Bắc California, Colorado, Texas, New Mexico và cả xứ Đan Mạch,
đồng thời vận động hợp tác với các
Giáo hội Phật giáo tại miền Nam California.
Môn sinh Thầy
đào tạo trong ngần ấy năm hiện đã có mặt và
hoạt động trên toàn
thế giới.
Cho đến nay, các cuốn sách ghi lại lời giảng của Thầy bằng Anh ngữ đã được
phổ biến sâu rộng trong giới
Phật học là Keys to Great Enlightenment, Miror of Wisdom và mới nhất là The Foundation of All Good Qualities, cuốn sách Thày giảng về 14
bài kệ của vị
Thánh tăng Lạt Ma Tsongkhapa. Ba cuốn đều do
Tu viện Thubten Dhargye Ling xuất bản và
phổ biến miễn phí cho những người muốn
học đạo.
Geshe-la cũng
đặc biệt quan tâm đến các
vấn đề xã hội và
tích cực hỗ trợ các
dự án nhân đạo như mở trường mù tại
Ấn Độ hay lập nơi cư trú của các vị sư cao niên trong chùa Gaden được dựng lại ở miền Nam xứ này.
Công đức của Thầy đã
thấm nhuần nhiều nơi và
đạo đức của Thầy đã
cảm hóa nhiều người.
Đối với đất nước và quyền tự trị của dân
Tây Tạng, Geshe-la là một nhân vật
tích cực tranh đấu và
vận động trong
xã hội Hoa Kỳ và ở nhiều
nơi khác trên
thế giới.
Cảm được lời
thỉnh nguyện và phong cách
đức độ của Geshe-la, nhiều người Mỹ
nổi tiếng đã
quy y Phật pháp và
lên tiếng cho dân
Tây Tạng.
Đặc biệt, giới phim ảnh của Hollywood đã hướng ống kính vào đề tài
Tây Tạng. Nhiều cuốn phim
giá trị như Sprit Tibet, Red Corner đã được
thực hiện và
phổ biến rộng rãi.
Một
Phật tử nổi tiếng tại Hoa Kỳ là tài tử Richard Gere.
Thừa lệnh đức
Đạt Lai Lạt Ma, ngôi sao
điện ảnh này đã cùng Giáo sư Robert Thurman và nhà soạn nhạc Philip Glass lập ra Tibet House để
bảo tồn và phát huy văn hoá và
tôn giáo Tây Tạng. Robert Thurman đi tu năm 24 tuổi (1965), hiện là Giáo sư
Đại học Columbia về
Ấn Độ và
Tây Tạng, và Chủ tịch của Tibet House. Ông cũng là
thân phụ của nữ tài tử Uma Thurman.
Người ta còn nhớ đến Richard Gere vì ông gây
chấn động khi dùng
diễn đàn của lễ trao giải Oscar để
lên tiếng cho
Tây Tạng. Ông ở trong
Hội đồng Quản trị của tổ chức Campaign for Tibet, đã
yểm trợ việc phát triển
tu viện Gaden của
Tây Tạng tại
Ấn Độ.
Geshe-la cũng đã được Richard Gere và
gia đình đề nghị góp tiền mở mang chùa Long Beach cho khang trang hơn mà Thầy từ chối, muốn dùng nguồn
yểm trợ của
mọi người để giúp đỡ các
tu viện hay
bảo trợ cho các buổi
thuyết giảng của đức
Đạt Lai Lạt ma. Phần mình, Geshe-la sống
đạm bạc tại Long Beach và đi không ngừng,
thuyết pháp ở nhiều nơi, nơi nào cũng gieo trồng
việc thiện, ý lành.
Với giới
trí thức,
thượng lưu hay nghệ sĩ Hoa Kỳ, Geshe-la là khuôn mặt
đáng kính trọng nên người ta không
ngạc nhiên khi thấy
năm ngoái, đức
Đạt Lai Lạt Ma từ miền Nam California qua New York đã lại
quay về Long Beach
tham dự Hội nghị về
Phụ nữ do Đệ nhất
Phu nhân California là bà Maria Schwarzenegger tổ chức hồi tháng Chín
năm ngoái tại Convention Center. Với
chủ đề "Một buổi chiều từ bi",
hội nghị thành công rực rỡ vì quy tụ 11 ngàn người đến nghe mà vé bán sạch trong nội 72 giờ.
Thiện duyên với
Phật Giáo Việt Nam Geshe-la, hạt mầm quí của
Phật Giáo Tây Tạng” -theo cách gọi của Đức Đạt Lai Lạt Ma- có
tình bạn và
thiện duyên đặc biệt với
Phật giáo Việt Nam.
Năm 1977, trong khi làm giáo sư thỉnh giảng tại
Đại học U.C. Santa Barbara, Geshe-La đã gặp một
nhà sư Việt Nam đang là Giáo sư của
Đại học UCLA tại Los Angeles và được ông mời về
ở chung phòng trong một chung cư nhỏ gần Hollywood.
Trẻ hơn Geshe La hai tuổi,
nhà sư đó là
Hoà thượng Thích
Thiên Ân, người mà
Phật tử Hoa Kỳ rất ngưỡng mộ và là người có nhiều
công đức cứu giúp người Việt tỵ nạn qua Mỹ sau
biến cố 1975. Nhiều vị sư Hoa Kỳ ngày nay là
đệ tử của thầy và không thể quên
con người đặc biệt này.
Hoà thượng Thích
Thiên Ân là Giáo sư tốt nghiệp
Tiến sĩ tại
Đại học Waseda của Nhật. Năm 1966, thầy từ
Việt Nam qua Mỹ trong
chương trình trao đổi giáo dục với
Đại học UCLA để giảng dạy về
Ngôn ngữ và
Triết học Đông phương. Ngoài việc giảng huấn, thầy là một
thiền sư có
uy tín thuộc dòng
Thiền Lâm Tế, và đã trứ tác nhiều sách
quảng bá Phật giáo bằng Anh ngữ. Thầy được mời ở lại Hoa Kỳ và lập ra ngôi chùa
Việt Nam đầu tiên từ năm 1970.
Thiền viện “International Buddhist Meditation Center,” do
Hoà Thượng Thiên Ân lập ra đã là nơi dừng chân đầu tiên của Geshe La. Vị
cao tăng Tây Tạng rất thường tới ngôi chùa
Việt Nam đầu tiên trên đất Hoa Kỳ, tại đường Vermont của thành phố Los Angeles.
Từ ngày ấy, đúng 30 năm về trước, hai vị
cao tăng Việt Nam và
Tây Tạng trở thành thâm giao
cho đến khi
Hoà thượng Thiên Ân viên tịch, năm 1980. Mối kỳ duyên của
Phật giáo Việt-Tạng đã keo sơn từ đó.
Khi đức
Đạt Lai Lạt Ma tới Los Angeles lần đầu, Ngài đã đến thăm và dùng ngọ trai trong ngôi chùa đầu tiên của
Phật tử Việt Nam tại Hoa Kỳ để bày tỏ lòng thâm cảm với
Phật giáo Việt Nam về sự
hợp tác ban đầu đó.
Khi
Hoà thượng Mãn Giác, người
kế vị Hoà Thượng Thiên Ân làm
trụ trì Chùa
Việt Nam,
viên tịch năm ngoái, Geshe-la
tham gia vào Ủy ban
Chứng minh Tang lễ.
Ngày nay, trong
tu viện Long Beach, các khóa giảng của Geshe-la đều có
phiên dịch sang Việt ngữ cho người Việt cùng theo.
Với
Phật giáo Việt Nam, Geshe-la có mối
ân tình sâu đậm, được đức
Đạt Lai Lạt Ma trân quý. Năm 2000, Geshe-la
bảo trợ ngày Tương hội với
chư tăng ni
Việt Nam tại Nam California và thỉnh đức
Đạt Lai Lạt Ma tham dự. Trong dịp này, đức
Đạt Lai Lạt Ma cũng đã
tiếp xúc và dùng ngọ trai với
tăng ni Việt Nam.
Năm xưa, Geshe-la cũng sớm nhìn ra căn tu của một cậu bé
Việt Nam và hướng dẫn
bước đầu để
trở thành vị sư
Tây Tạng đầu
tiên sinh tại Mỹ, có
cha mẹ Việt Nam, được
thọ giới tại
Ấn Độ với đức
Đạt Lai Lạt Ma. Đó là
nhà sư trẻ Kusho Tenzin Drodon.
Từ năm Kỷ Hợi 1959
đến nay, pháp nạn của
Tây Tạng khiến báu vật của văn hoá và
tôn giáo xứ này được tung ra khắp nơi trên
thế giới. Nhưng cũng từ đấy, một viên
kim cương của
Phật giáo Tây Tạng đã chiếu tới Hoa Kỳ, ánh
từ quang còn tỏa sáng đến nhiều
Phật tử Việt Nam.
NGUYỄN XUÂN NGHĨA
(Trích báo xuân Việt Báo Tết Đinh Hợi, 2007)