9
TRÍ HUỆ
1. Tất cả những ngành này của
Giáo PhápBậc
Đại Lực đã diễn bày để vì
trí huệ.
Bởi thế, những ai muốn
chấm dứt sanh tửPhải phát sanh
trí huệ này.
Có nhiều
loại trí huệ. Chẳng hạn, có hai
loại trí huệ
tương đối đạt được qua sự
nghiên cứu năm khoa học
chính truyền thống.(39) Cũng có
trí huệ để làm việc cho sự
lợi lạc của những người khác. Khi Shantideva nói ở đây rằng “Tất cả những ngành này của
giáo pháp đã được diễn bày để vì
trí huệ,” ngài nhắm chỉ đến
trí huệ chứng ngộ tánh Không, thực tánh của mọi sự vật. Đây là
trí huệ tối hậu.
Để thấu hiểu
tánh Không,
chúng ta không cần năm
ba la mật đầu, và chúng cũng không thiết yếu ngay cả cho sự khai triển cái quán thấy
sáng tỏ của vipashyana. Nhưng như
chúng ta sẽ thấy, chúng là
cần thiết nếu
chúng ta muốn làm
lợi lạc cho những
chúng sanh khác.
Nagarjuna nói trong Bảy Mươi
Bài Kệ về
tánh Không :
Như thế,
đức Phật nói :
Mọi sự vật khởi sanh từ những
nguyên nhân và
điều kiện ;
Thấy chúng có thực tức là
vô minhTừ đây khởi sanh chuỗi
mười hai nhân duyên.(40)
Hơn nữa, có nói trong Bốn Trăm
Bài Kệ :
Hạt giống của
hiện hữu sanh tử là thức ;
Những
hiện tượng là cánh đồng của thức.
Nếu
chúng ta thấy sự không thực của sự vật,
Là
chúng ta hủy hoại
hạt giống của
hiện hữu sanh tử.
Những đoạn này có thể được
giải thích theo nhiều cách, nhưng theo
truyền thống của Chandrakirti, là
truyền thống mà Shantideva gắn liền,
giáo lý của Nagarjuna và dòng của các ngài nói rằng bám chấp vào cái ngã như là một
thực thể tức là
vô minh, và sự
vô minh tin rằng những
hiện tượng thực sự
hiện hữu ấy tạo thành một vòng xích
mười hai nhân duyên. Điều ấy làm khởi sanh
hiện hữu sanh tử, đến lượt cái này là một vòng xích
mười hai nhân duyên khác.
Đoạn thứ hai
phát biểu rằng
hạt giống của
hiện hữu sanh tử này là loại thức có những đối tượng, hay
hiện tượng, như là cánh đồng của
kinh nghiệm nó. Nếu những đối tượng này được hiểu là không có
thực tại tối hậu,
vô tự tánh,
hạt giống này của
hiện hữu sẽ bị
phá hủy, và nó bị hủy hoại
hoàn toàn khi
trí huệ thấu hiểu rằng những
hiện tượng là không có
hiện hữu chân thực được khai triển
hoàn toàn.
Mọi trường phái của
Phật giáo, với một
thiểu số ngoại trừ,
chấp nhận rằng
ý niệm một cái ngã của
con người, cái tôi, là
tùy thuộc vào năm hợp uẩn. Chúng
bác bỏ niềm tin vào một cái ngã
hiện hữu độc lập với
năm uẩn này.
Lý thuyết vô ngã tuy nhiên còn đi rất
xa hơn là sự phủ nhận cái tôi của
con người. Người ta phải nhắm đến thấu hiểu rằng mọi
hiện tượng là trống không, không có
hiện hữu thực,
vô tự tánh và thật ra có một cách thế
hiện hữu cực kỳ
vi tế.
Như
chúng ta đã nói, khi
chúng ta thấy rằng những
hiện tượng hay đối tượng của
tâm thức thì không có
thực thể nào,
hạt giống của
hiện hữu sanh tử bị
phá hủy. Cái ngược lại với cái hiểu này là bám chấp vào
niềm tin rằng sự vật có một
thực tại cứng đặc, và đây là định nghĩa của
vô minh.
Là một
sai lầm khi tin rằng những người
thực hành những thừa thấp là không thể tự
giải thoát khỏi những thức tình
tiêu cực và nhờ đó
đạt được giải thoát khỏi
sanh tử. Thật vậy, nghĩ như thế ấy là một
vi phạm trọng yếu những
giới luật Bồ tát. Khi những người theo những
con đường của
Thanh Văn và
Độc Giác Phật trở thành A La Hán,(41) họ
hoàn toàn thoát khỏi những che chướng sanh ra bởi những thức tình
tiêu cực. Họ cũng phải có một
chứng ngộ tánh Không, nếu khác đi, họ không thể
giải thoát khỏi
sanh tử.
Trí huệ thấu hiểu
tánh Không thật ra đem lại ba loại
giác ngộ : của
Thanh Văn, của
Độc Giác Phật và của
Bồ tát.
Khi Shantideva nói, “Tất cả những ngành này của
Giáo Pháp / Bậc
Đại Lực đã diễn bày để vì
trí huệ,” ngài
ám chỉ đến
trí huệ của
Bồ tát và không phải đến cái quán thấy
tánh Không được
tu hành bởi
Thanh Văn và
Độc Giác Phật khi các ngài
tiến bộ trên những
con đường tương ứng của các ngài.
Vậy thì cái gì là
đặc biệt nơi
trí huệ của
Bồ tát ? Tại sao họ
thiền định về
tánh Không ? Những
Bồ tát nhằm
giải thoát mình không chỉ khỏi những che chướng tạo ra bởi những thức tình
tiêu cực mà còn khỏi những che chướng chúng là những trở ngại đối với
hiểu biết. Họ phải
giải thoát khỏi cái trước, trước khi họ có thể
giải quyết cái sau.
Tuy nhiên, có thể nói rằng trong một số
trường hợp nào đó những thức tình
tiêu cực cung cấp cơ hội cho một kết quả tốt, như khi sự
thương yêu những người khác khởi lên qua
tham muốn. Như
tục ngữ nói, “Chất thải hôi thối từ thành phố Serkya làm phân bón màu mỡ cho những cánh đồng mía.”
Tuy nhiên,
quả thật những
kẻ thù thực sự của
Bồ tát, và những
ngăn cản lớn nhất trong công việc của họ vì những người khác, là những che chướng phủ che
toàn giác. Nhưng bởi vì những cái này nằm trong những dấu vết còn lại do những thức tình
tiêu cực để lại, từ đó mà cái sau phải được trừ bỏ trước khi những
chướng ngại cho
hiểu biết có thể được dở đi.
Như thế, khi những
Bồ tát thiền định về
tánh Không,
mục tiêu của họ là chủ yếu
trừ diệt những
chướng ngại này đối với
hiểu biết. Để làm điều này, chỉ có một cái hiểu thuộc
trí thức về
bản chất vi tế của sự vật thì không đủ.
Trí huệ trừ diệt những che chướng này phải được
nâng đỡ bởi những
thực hành như
rộng lượng và các
ba la mật khác.(42)
Đức Phật dạy những
thực hành khác nhau này khiến những
Bồ tát có
thể đạt được
sự quán thấy
sáng tỏ qua đó họ
trừ diệt những
chướng ngại đối với
hiểu biết và rồi làm việc cho
lợi lạc của những người khác.
Nói về sự phát sanh
trí huệ để
chấm dứt khổ đau, Shantideva
ám chỉ đến khổ đau của tất cả
chúng sanh. Dù sao, bản văn này là để nói về những
hoạt động của
Bồ tát, và chẳng phải
chúng ta chỉ mới
bàn luận cái gì là
sai lầm trong sự
yêu chuộng bản thân mình và tại sao là quan trọng trong sự việc nghĩ đến những người khác sao ?
Khi rộng lượng… được
thực hành như những
ba la mật, được
thực hành với một thấu hiểu rằng chủ thể, đối tượng và
bản thân hành động, tất cả đều không có
hiện hữu chân thật, đều
vô tự tánh, khi ấy những hành động này trở nên rất
sâu xa và
hoàn toàn siêu việt sự
rộng lượng bình thường…
Chúng ta cần
ghi nhận rằng Shantideva nói về
rộng lượng trước tiên và đặt
chủ đề trí huệ chỉ ở sau cùng. Ngài có một
lý do cho điều ấy. Trong
Toát Yếu Mọi
Thực Hành ngay trước khi bắt đầu sự
diễn giải của ngài về
tánh Không, ngài trình bày với nhiều
dẫn chứng từ các kinh rằng chính
đức Phật, trước khi bắt đầu nói về cùng
chủ đề, đã nói về
tính không hấp dẫn và
vô thường của những
hiện tượng và về
bản chất của khổ. Người ta có thể hầu như nghĩ rằng
thế giới của những
hiện tượng là
chủ đề chính của lời dạy của ngài, bởi vì chỉ khi
kết luận ngài mới nói rằng những sự vật không có
hiện hữu thực sự và khách quan.
Tuy nhiên, có một
lý do cực kỳ quan trọng trong
việc làm của ngài theo cách ấy. Để bắt đầu, ngài
bàn luận những mặt
tích cực và
tiêu cực của sự vật, đặt nền tảng cho một sự thấu
hiểu rõ ràng về
chức năng không sai chạy của
chân lý tương đối, theo đó những sự vật đúng là
hiện hữu. Chính trên nền tảng của
hiện hữu tương đối của chúng mà
đức Phật giải thích rằng những
hiện tượng là
vô tự tánh. Chỉ ở nơi có một nền tảng mới có thể
xác nhận tánh Không. Như có nói : “Hình thể là
tánh Không ;
tánh Không là hình thể.” Bởi vì có hình thể,
chúng ta mới có thể nói về sự không
hiện hữu của nó.
Nếu không có hình thể, cũng không có
tánh Không của hình thể. Khi có những
hiện tượng mà
chúng ta có thể nói đến như là trống không,
chúng ta nói có một căn cứ cho
tánh Không. Không có căn cứ đó,
tánh Không là không thể
quan niệm được.
Một
giải thích những
thực hành của cái đầu tiên trong năm
ba la mật, bắt đầu với
rộng lượng, cho
chúng ta một cái thấy
rõ ràng về căn cứ cho
tánh Không. Ví dụ khi
chúng ta thực hành về
rộng lượng để loại trừ cho
bản thân chúng ta và những người khác mọi khổ đau do nghèo cùng,
chúng ta nhận biết chân lý tương đối của nhân và quả. Khi được
giải thích sau đó rằng, trong
chân lý tuyệt đối, tất cả mọi cái ấy thực sự không có
hiện hữu thật,
chúng ta đã được đặt nền
vững chắc trong
chân lý tương đối và như thế được
bảo vệ khỏi lạc vào những
cực đoan triết học của thường còn và
đoạn diệt.
2.
Quy ước và
tối hậu –
Hai chân lý này được
tuyên bố là
hiện hữu.
Chân lý tối hậu thì không ở trong
phạm vi của
trí thức,
Vì
trí thức được cho là
quy ước.
Có một sự
phân biệt, về những sự vật có thể
hiểu biết được, giữa
chân lý tương đối (
quy ước) và
chân lý tuyệt đối (
tối hậu). Theo bản văn gốc,
chân lý tuyệt đối không thể
tri giác được bằng
trí thức.
Như
chúng ta thấy trong
Bát Nhã ba la mật :
Trí huệ ba la mật thì không
quan niệm được, không
biểu lộ được và không
diễn tả được.
Nó không sanh, không diệt ; như
hư không.
Chỉ có một
tâm giác ngộ mới có thể
hiểu biết nó.
Trước Bà Mẹ của tất cả chư Phật, con xin
đảnh lễ.
Lại nữa trong Kinh
Kim Cương Cắt Đứt nói :
Bản tánh tuyệt đối của chư Phật,
Thân thể tuyệt đối của những vị hướng dẫn
tâm linh,
Không thể được hiểu bằng
trí thức.
Lý do của điều này, như Shantideva nói, là
trí thức là một cái gì
hiện hữu nơi mức độ của
chân lý tương đối.
Tuy nhiên, sự
giải thích về điểm này là
tế nhị, vì ở sau trong bản văn,
chúng ta sẽ đọc về loại khác của
trí thức và
thông minh. Shantideva
tiếp tục :
3. Hai loại người được
phân biệt :
Thiền giả và người thường.
Những
ý niệm của người thường sụp đổ,
Bị những
tri kiến của những thiền giả
bác bỏ.
4. Và trong hàng những thiền giả này
Cái thấp hơn trong mức độ
quán chiếu bị
bác bỏ bởi cái cao hơn.
Những
so sánh được cùng chủ trương ;
Và để
hoàn thành mục đích, phân tích bị bỏ qua một bên.
Khi bản văn nói đến
quán chiếu hay
thông minh, nó
ám chỉ sự thấu hiểu về sự không có
hiện hữu chân thật. Trong việc
sử dụng trí huệ phân biệt để phân tích những
hiện tượng, những trường phái khác nhau
đạt được những mức độ khác nhau của sự thấu hiểu này, và những cái nào với những
tri kiến triết học cao hơn
bác bỏ những
tri kiến kém
tiến bộ hơn.
Vả lại, có hai
loại trí huệ
phân biệt. Một cái
phân biệt sự vật theo
chân lý tương đối, và cái kia
phân biệt sự vật theo
chân lý tuyệt đối. Ở đây trong bản văn,
quán chiếu hay
thông minh,
ám chỉ trí huệ phân biệt nó phân
tích bản chất
tuyệt đối của những sự vật và không phải là
thông minh trong
nghĩa thông thường hơn về những
hiện tượng tương đối. Và nếu
bài kệ được
xem xét theo
con đường sâu xa và
con đường rộng lớn, thì chính là
con đường sâu xa mà nó
ám chỉ đến.
Có nói trong
Đi Vào trung Đạo : “Người ở mức độ đi xa thêm có
trí thông minh cao cấp.” Khi một
Bồ tát đạt đến địa thứ bảy, ngài được gọi là đi xa thêm (
viễn hành địa),
thông minh của ngài vượt hơn
thông minh của một
Thanh Văn hay
Độc Giác Phật.
Cho đến lúc đó, những
Bồ tát từ địa thứ nhất trở lên vượt hơn
Thanh Văn và
Độc Giác Phật bởi vì
gia tộc của các ngài, chứ không bởi vì
năng lực của
trí thông minh của các ngài, hay sự thấu hiểu
tánh Không của các ngài.(43) Chỉ khi các ngài
đạt đến địa thứ bảy,
trí thông minh của các ngài mới cao hơn. Cũng có nói rằng ở điểm này các ngài vượt hơn
Thanh Văn và
Độc Giác Phật với khả năng của các ngài, trong một khoảnh khắc, nhập vào và khởi lên khỏi
diệt tận định.
Khi Shantideva nói rằng
chân lý tuyệt đối không thể được
tri giác bằng
trí thức, ngài không
ám chỉ đến
trí thông minh nhận biết chân lý tuyệt đối mà là đến
trí thông minh bị che chướng, nó
quan niệm ra sự phân hai của chủ thể và đối tượng.
Chân lý tuyệt đối là cái gì
chúng ta phải trải nghiệm với một tâm
thoát khỏi những
ý niệm và trong đó không có những
ý niệm nhị nguyên như thế.
Chân lý tương đối là cái được
tri giác bởi
trí thông minh nhị nguyên,
ý niệm.
Những
truyền thống không phải
Phật giáo của
Ấn Độ cổ thời cũng nói về những
chân lý tuyệt đối và
tương đối. Những nhà Samkhya chẳng hạn, nhìn
bản chất nguyên sơ như
chân lý tuyệt đối, và cái còn lại tức là hai mươi lăm đối tượng của
hiểu biết (như cái Ngã) như
chân lý tương đối. Ngay giữa những trường phái
Phật giáo khác nhau – Vaibhashika, Sautrantika, Chittamatra và Madhyamika –
hai chân lý được
giải thích theo những đường lối có hơi khác biệt.
Từ
tương đối đôi khi được gọi là một
chân lý che ám và đôi khi là một
chân lý quy ước,
tùy theo mạch văn. Và
chân lý tuyệt đối cũng có thể có nhiều nghĩa khác nhau. Khảo Luận về
Trung Tâm và những
Cực Đoan nói đến
chân lý tuyệt đối tuyệt đối,
chân lý tuyệt đối thực hành, và
chân lý tuyệt đối đạt được. Lại nữa, trong Mật thừa
tối thượng người ta nói đến
quang minh tuyệt đối. Hơn nữa, để
giải thích những
thực hành đặc biệt của Mật thừa,
hai chân lý được
giải thích theo nhiều cách khác nhau. Ví dụ,
phương diện như huyễn và
vô thường của những
hiện tượng là thuộc về
chân lý tương đối, trong khi
phương diện tương tục bổn nhiên của chúng thuộc về
chân lý tuyệt đối.
Bởi thế khi
chúng ta nói về
chân lý tuyệt đối,
chúng ta luôn luôn cần quy chiếu với văn cảnh, hoặc
Kinh thừa hay Mật thừa, và nếu Mật thừa, thì với tantra riêng biệt. Bấy giờ
chúng ta nắm được một cái hiểu
chính xác về
chân lý tuyệt đối trong mạch văn đó. Điều này rất quan trọng. Nếu
chúng ta cố gắng áp dụng chỉ một cái hiểu tổng quát về
chân lý tuyệt đối cho bản văn
đặc biệt nào đó,
chúng ta có thể rất
bối rối, lầm lộn.
Có nói trong Những
Bài Kệ Gốc của
Trung Đạo rằng những lời dạy của Phật
dựa vào hai chân lý :
chân lý của
thế giới tương đối và cái
tối thượng,
chân lý tuyệt đối. Điều này được
giải thích chi tiết trong
Đi Vào Trung Đạo, nó nói rằng, vì tất cả
hiện tượng được
tri giác theo cả hai cách
đúng đắn và
sai lầm,
chúng ta hiểu
bản chất của chúng theo hai cách. Cách được
tri giác đúng là
chân lý tuyệt đối, và cách được
tri giác không đúng là
chân lý tương đối. Điều này
ám chỉ đến những phát hiện của
kinh nghiệm không
ý niệm, thuộc về
chân lý tuyệt đối, và những phát hiện của phân tích
ý niệm, thuộc về
chân lý tương đối. Chính trên căn cứ của những cái này mà
chúng ta kiến lập sự
hiểu biết về
tánh Không. Nhưng ở đây
chúng ta chỉ nói về
kinh nghiệm không
ý niệm của
chân lý tuyệt đối. Với ngoại lệ này, những cách thức
phân biệt những
chân lý là giống nhau như trong
Đi Vào Trung Đạo.
Tại sao
chúng ta cần
chứng ngộ tánh Không ?
Chúng ta không muốn khổ đau, và
chúng ta biết rằng gốc rễ của khổ đau là
tâm thức không được
thuần hóa. Vì do
tâm thức tri giác và
hiểu biết sự vật một cách
sai lầm, những tình thức
tiêu cực khởi lên và
tâm thức không bao giờ bình yên. Đây là
lý do tại sao
chúng ta khổ. Để không khổ,
chúng ta phải khai triển cái
tâm thức không
sai lầm,
trí thông minh tri giác chân tánh của những
hiện tượng.
Tri giác sai lầm khởi sanh bởi vì
chúng ta không thấy được những sự vật như chúng là.
Nhiều cái
chúng ta tri giác thì
chúng ta tri giác trong một cách
sai lầm, thấy sự vật không như chúng thật sự là. Do
vậy mà chúng ta bị lừa gạt. Để không bị lừa gạt,
chúng ta không nên
chấp nhận những
tri giác của
chúng ta đúng như
chúng ta kinh nghiệm chúng. Rất quan trọng phải phân tích và thẩm xét
chúng ta đang nhìn sự vật có đúng như chúng thực sự là hay không.
Chúng ta nên tự hỏi cái gì những
tri giác của
chúng ta đang
che đậy. Nếu
chúng ta làm thế, một thấu hiểu về
hai chân lý sẽ
sanh khởi trong
tâm thức chúng ta.
Mọi sự
chúng ta tri giác – núi non, nhà cửa… –
tác động chúng ta theo cách này hay cách khác.
Chúng ta cần thẩm xét thực tánh của chúng. Những
tri giác của
chúng ta, và những
phương diện tích cực và
tiêu cực mà
chúng ta góp thêm cho chúng, tạo thành
chân lý tương đối.
Chân lý tương đối là cái
chúng ta tìm thấy khi
chúng ta kinh nghiệm sự đa thù của những
hiện tượng trong một cách thức
tương đối, không tiến thêm trong việc phân
tích bản chất của chúng. Những phát hiện của phân tích bởi
tâm thức quy ước tạo thành
chân lý tương đối.
Nếu, theo
chân lý tuyệt đối, những sự vật không có
hiện hữu chân thật,
vô tự tánh, thì tại sao
chúng ta nói đến
chân lý tương đối như là
chân lý ? Bởi vì nó là thật đối với người
tri giác. Nó là thật đối với
tâm thức bị
vô minh che phủ,
tâm thức ấy tin vào
thực tại của những
tri giác của nó. Như
Đi Vào Trung Đạo nói, cái bị
biến đổi và che ám bởi
vô minh và được
tri giác như là thật thì được gọi là
chân lý tương đối.
Đối với
tâm thức nào thì sự đa thù của những
hiện tượng là thật ? Chỉ có thể là cái
tâm thức vô minh lầm loạn nó tin rằng những sự vật
hiện hữu một cách khách quan.
Thật tánh của những sự vật bị che ám bởi sự bám chấp
vô minh của
tâm thức vào những sự vật và vào cách thức chúng
hoạt động. Như thế,
chân lý tương đối căn cứ trên những phát hiện của
tâm thức nó khảo sát sự vật theo một cách
quy ước. Nếu
chúng ta phân tích hơn nữa và
cố gắng nhìn thấy
bản tánh thực của những
hiện tượng,
chúng ta có thể phát hiện
bản tánh tối hậu của
thực tại. Ở đây
chúng ta phân biệt giữa cách thức những sự vật
xuất hiện (
chân lý tương đối) và cách thức chúng thật sự là (
chân lý tuyệt đối), nó là cái được
tri giác bởi
tâm thức không bị lừa gạt.
Có hai cách để tiếp cận
chân lý tuyệt đối : một
hình dung tích cực về nó có
thể đạt được qua nghe,
tư duy, và
thiền định, và một sự thấu hiểu về nó nhờ vào phủ định có
thể đạt được bởi phân tích. Đối với
lý trí thì
rõ ràng là nếu người ta có thể phát hiện qua phân tích cái gì thực sự
hiện hữu thì người cũng có thể phát hiện nó qua nghe,
tư duy và
thiền định. Nhưng
sự kiện là, cái người ta có thể phát hiện qua nghe,
tư duy và
thiền định thì không thể phát hiện bởi phân tích. Chẳng hạn,
bản tánh tuyệt đối là cái gì có thể được
kinh nghiệm qua nghe,
tư duy và
thiền định. Khi người ta thẩm xét
bản tánh của
cá nhân và của tất cả
hiện tượng, người ta phát hiện rằng
bản tánh của chúng là
tánh Không.
Tánh Không này là một
chân lý tuyệt đối nó lộ rõ với
tâm thức. Người ta có thể thấy nó với
tỉnh giác của mình. Một khi nó đã được
kinh nghiệm, không
cần thiết phải
trở lại chứng minh,
giải thích nó. Bằng cách quy chiếu vào
kinh nghiệm của mình về
bản tánh này mà người ta có thể nhớ lại, nắm lại nó. Sự
hiện hữu của nó là thật, và người ta không phải nương
dựa vào biện luận để
chứng minh rằng nó có. Thế nên khi người ta có một xác tín nào đó rằng không có
hiện tượng nào là thực sự
hiện hữu, người ta không cần
giải thích điều đó
trở lại hay lập lại sự thẩm xét.
Bản tánh tuyệt đối này được xác minh qua nghe,
tư duy, và
thiền định là cái
chúng ta có thể
kinh nghiệm.
Tuy nhiên, khi người ta
trông chờ bản tánh tuyệt đối này hay là
tánh Không, và
cố gắng tìm ra nó ở đâu, người ta không thể
tìm thấy nó.
Bản tánh của nó là không
hiện hữu. Khi người ta lấy
bản tánh tuyệt đối (mà người ta đã
kinh nghiệm qua nghe,
tư duy và
thiền định) làm đối tượng để phân tích, người ta không thể
tìm thấy nó. Đấy là vì sao nó được gọi là không
hiện hữu tự
bản chất. Lấy một ví dụ,
chúng ta có thể nói rằng một cái bình có
bản chất tánh Không, nhưng khi
chúng ta tìm kiếm tánh Không ấy, nó là không
hiện hữu. Tất cả cái mà
chúng ta có thể
tìm thấy là
tánh Không của
tánh Không, nhưng
chúng ta không thể
tìm thấy tánh Không. Cái đã được
tìm thấy bằng cách
kinh nghiệm nó qua nghe,
tư duy và
thiền định không thể được
tìm thấy qua phân tích như vậy.
Đây là một điểm quan trọng. Sự thấu hiểu về
chân lý tuyệt đối đến từ nghe,
tư duy, và
thiền định là một cái gì có thật và có thể được
kinh nghiệm. Nhưng ở trong
chân lý tuyệt đối nó
xuất hiện qua sự phân tích về chính
bản thân tánh Không, không có cái gì
hiện hữu cả.