CHƯƠNG IX
CHIKA BARDO (TIẾP)
CHEUNYI BARDO, SIPAI BARDO
Bardo của lúc chết (tiếp)
Bây giờ
chúng ta hãy đề cập đến bardo của lúc chết.
Chúng ta có những
giáo huấn cực kỳ
chính xác, cực kỳ
chi tiết về bardo này và về mọi dấu hiệu khác nhau ở bên ngoài, bên trong và
bí mật về điều mà người ta
cảm thấy,
trải qua... Nhưng nói đến
chủ đề này trong một
thời gian quá ngắn không
cho phép chúng ta soi sáng mọi thắc mắc,
nghi vấn có thể nổi lên trong
tâm trí các bạn, và điều ấy có thể khiến làm nổi dậy nơi một số người sự lo sợ và nhiều
tư tưởng vô ích.
Người ta gợi ra ngắn gọn các giai đoạn khác nhau, và nếu có một
quan tâm thích thú vấn đề này, người ta sẽ đề cập lại vài tháng nữa trong một buổi nghỉ cuối tuần mà người ta
hoàn toàn chỉ
chuyên chú vào bardo này, và khi ấy người ta sẽ thấy từng phần mục của tiến trình này trong mọi
chi tiết.
Về bardo của giây phút chết, nói cho đúng, thật chẳng là gì cả. Nói cách khác, đó là một
trạng thái nếu người ta biết cách
chạm mặt, nếu người ta biết cách làm việc với nó, thì nó chẳng có gì đặt biệt. Như đã đề cập hồi sáng, một người có khả năng
áp dụng một vài
thực hành sẽ có
thể đạt đến trong chỉ
một đời thân thể cầu vồng. Nếu người ta không có
thời gian để hiến mình cho một cuộc
tu hành mãnh liệt, thì luôn luôn có thể
thi hành pháp phowa,
chuyển di tâm thức.
Cho đến lúc đó, người ta không phải
lo lắng nữa.
Và nếu người ta không có
thời giờ cũng không có khả năng
thi hành pháp ấy, thì cũng cần biết tiến trình sự chết là thế nào.
Đối diện với cái
xa lạ, không biết, đôi khi không biết gì cả và lao đầu đại vào đó thì thích hơn. Hẳn thế, nhưng cũng không có
phiền phức gì khi biết được tiến trình của cái
xa lạ này, những giai đoạn mà người ta sắp
trải qua.
Rõ ràng mỗi người đều
tự do muốn được thông tin hay không !
Cái xảy ra vào lúc mang thai, nghĩa là khi
tâm thức chúng ta vào trong bụng mẹ
dựa vào tinh chất màu trắng của cha và
tinh chất màu đỏ của mẹ, là một tiến trình kéo dài nhiều hay ít hơn chín tháng, từ đó
chúng ta có một
thân thể vật lý.
Được tạo thành bằng cách ấy,
chúng ta dựa vào các
nguyên tố khác nhau. Bên ngoài,
chúng ta có đất, nước, lửa, gió và
không gian.
Cũng thế, bên trong
thân thể chúng ta được hợp thành bởi
tinh chất của năm
nguyên tố.
Tinh chất của thịt chẳng hạn thuộc về đất. Máu và các chất lỏng khác thuộc về nước. Thân nhiệt thuộc về lửa và
hơi thở và sự
lưu chuyển của
năng lực trong
thân thuộc về gió. Khoảng không đầy khắp trong
toàn thân, thuộc về
nguyên tố không gian.
Chúng ta cũng có năm
trung tâm liên quan với năm
nguyên tố.
Mặc dầu theo các
giáo huấn khác nhau có thể có chút ít
sai biệt, nhưng tổng quát,
trung tâm lỗ rốn được
xem như trung tâm năng lực của đất,
trung tâm đỉnh đầu là
trung tâm năng lực của nước,
trung tâm lời nói liên kết với lửa,
trung tâm bí mật với gió và
không gian liên kết với trung tâm trái tim.
Chúng ta hãy xem tiến trình của sự tan rã
nguyên tố này trong
nguyên tố khác một cách
đại cương.
Vì
trung tâm thành hình đầu tiên là
trung tâm rốn, cho nên cũng là
trung tâm đầu tiên giải tán.
Năng lực của
nguyên tố ở trong rốn bắt đầu hòa tan. Nó hòa tan vào cái gì ? Nó hòa tan trong
năng lực của
nguyên tố nước. Khi nó hòa tan, về thân xác, người ta
cảm thấy rất nặng nề, về
tâm thức, người ta chìm trong sự đờ đẫn,
tâm thức không sáng sủa.
Cảm giác nặng nề này,
cảm giác lún sâu này, người ta có thể
nhận ra chúng nếu họ đến
tham dự với những người hấp hối. Với riêng tôi, vì cha tôi là một
đại sư và cũng là một thầy thuốc, người thường được gọi đến bên giường người hấp hối, và tôi cũng
thường có dịp
tham dự với những người đang chết. Người ta rất thường gặp
kinh nghiệm này được
giải thích rất
chính xác trong những
giáo huấn : ngay cả những người nằm rất
thoải mái cũng đòi hỏi “hãy giữ tôi lại, tôi
cảm thấy rơi xuống, tôi
cảm thấy bị lún xuống !” Điều này chỉ rằng
nguyên tố đất đang tan vào
nguyên tố nước.
Đất tan trong
nguyên tố nước, còn
nguyên tố nước tan vào đâu ?
Nguyên tố nước
tiêu tan trong lửa.
Chúng ta cảm thấy rất
yếu đuối. Nhưng chưa hết. Bên trong,
chúng ta không chỉ
cảm thấy tối tăm, mà một
trạng thái bị tước đoạt hết xâm chiếm
chúng ta. Ở giai đoạn này,
chúng ta nhận thấy rằng những chất lỏng chảy ra từ mũi và miệng của người hấp hối, họ
cảm thấy mất hết nước và đòi uống. Cho người ấy uống lúc này sẽ là một sự giảm nhẹ cho họ.
Khi nước tan trong lửa, hơi nóng của
thân thể bắt đầu yếu đi, nó
thoát khỏi thân. Bên trong các
cảm giác rất là trái ngược nhau : khi thì người ta
cảm thấy một sự sáng sủa
tâm thức rất lớn, khi thì một sự
lộn xộn rất lớn. Cũng thường trong giai đoạn này –
chắc chắn điều ấy
tùy thuộc vào bệnh tật và các
hiện tượng khác – đôi mắt
đảo lộn và người ta không thể nhắm lại nữa.
Tiếp theo,
năng lực của lửa tan trong
nguyên tố gió. Vì
nguyên tố gió bên trong
liên quan với
hơi thở, ở giai đoạn này
hơi thở ngắn lại. Rồi người ta có những thay đổi chuyển tiếp sáng sủa và
lộn xộn của
tâm thức, ở đây
trạng thái tâm thức bị xáo động.
Rồi,
mặc dầu mắt hoặc nhắm hoặc trợn ngược,
chúng ta có những
tri giác dưới dạng các tia chớp sáng.
Mọi
kinh nghiệm này không chỉ dành riêng cho
con người,
thú vật và ngay cả côn trùng nhỏ bé nhất cũng
trải qua tương tự. Chẳng hạn khi một con thỏ
bị giết chết bởi một chiếc xe hơi, nếu
chúng ta quan sát nó vào lúc các
nguyên tố hòa tan trong nhau,
chúng ta thấy các con chấy rận từ trong bộ lông nhảy ra.
Cũng thế –
rõ ràng ở
Tây phương điều này không xảy ra vì dễ dàng tắm rửa – nhưng ở
Đông phương vì nhiều
lý do mà người ta có thể có chí rận, và
lúc ấy, người ta thấy các con chí rận không bám lấy người nữa mà rời bỏ
thân thể một cách
hối hả. Điều đó xảy ra khi
nguyên tố lửa tan vào
nguyên tố gió.
Chúng ta cũng đã
ghi nhận, và điều này cũng được
giải thích trong các
giáo huấn, rằng vào
lúc ấy người chết có
cảm giác bị gió cuốn đi, người ấy
cảm thấy một
không gian bao la và
cố gắng bám lấy.
Trong thân ta,
chúng ta có hai
tinh chất mà
chúng ta đã nhận được từ cha và mẹ :
tinh chất màu trắng của cha và
tinh chất màu đỏ của mẹ.
Chúng ta cũng có những kinh mạch
vi tế trong đó các
tinh chất này
lưu thông.
Tinh chất đỏ trú ngụ ở phần dưới của kinh mạch trung ương, ngang mức lỗ rốn và
tinh chất trắng trú ngụ trên cao trong luân xa đầu.
Ở giai đoạn này,
tinh chất đỏ bắt đầu
đi lên về trái tim bằng cách theo kinh mạch chính, và
tâm thức chúng ta có một
kinh nghiệm một tia chớp
rực rỡ màu đỏ trong
không gian. Khi
chúng ta phạm trù hóa những
phiền não khác nhau,
chúng ta đã thấy có 21.000 loại
phiền não nối kết với
tham ái.
Tuy nhiên, người ta có thể giản lược chúng thành 40
phạm trù lớn của các
hình thức tư tưởng và
phiền não nối kết với
tham ái. Khi
tinh chất đỏ bắt đầu
đi lên, 40
hình thức phiền não liên hệ với
tham ái này đi đến chỗ cạn kiệt.
Tiếp theo,
tinh chất trắng bắt đầu
đi xuống từ đỉnh đầu và
chúng ta có một
kinh nghiệm bên trong về ánh sáng trắng sáng chói.
Đúng lúc ấy, 21.000
phiền não liên hệ với sân – mà người ta có thể giản lược thành ba mươi
phạm trù lớn của các
hình thức tư tưởng hay
phiền não – đi đến chỗ cạn kiệt.
Rồi
hơi thở bên ngoài,
hơi thở ra kéo dài ra so với
hơi thở bên trong,
hơi thở vào, và tất cả máu chảy dồn về tim. Sau đó,
tinh chất trắng và
tinh chất đỏ
gặp nhau trong trái tim,
yếu tố tâm thức cũng rút vào đó và người ta thấy một
kinh nghiệm về ánh sáng tối đen. Lúc này, 21.000
tư tưởng liên hệ với si,
vô minh – mà người ta có thể rút gọn lại thành bảy
hình thức tư tưởng – cạn kiệt hết lúc đó. Trong vài chốc lát, người ta bất tỉnh trong một
trạng thái vô thức trong bóng tối
toàn diện.
Miệng không đóng được nữa. Dầu miệng đã không đóng lại vì
thở khó khăn hay các
nguyên nhân vật lý, dù nó được đóng lại một cách
nhân tạo hay không, thì nó cũng mở ra vào lúc đó. Mắt trợn lên. Từ lúc này trở đi, người ta không còn thấy với con mắt
vật chất nữa ;
hơi thở ra dừng lại trong một khoảng cánh tay ; vào lúc
hơi thở đi ra, người ta có
kinh nghiệm bên trong về một ánh sáng
hoàng hôn.
Hơi thở ra thứ hai kéo dài một khoảng cách bằng một mũi tên, và bên trong thân, máu bắt đầu chảy trong trái tim.
Hơi thở ra thứ ba đạt tới khoảng một vòng ôm và dừng lại. Máu chìm xuống trong trái tim. Và đó là
hơi thở cuối cùng.
Hơi thở bên ngoài dừng lại,
hơi thở bên trong
tiêu tan, và
lúc ấy các
tinh chất trắng và đỏ thật sự
kết hợp với nhau trong trái tim. Người ta rơi vào
vô thức cùng lúc người ta
chứng nghiệm một
phúc lạc lớn lao.
Bardo của ánh sáng thanh tịnh (tịnh quang)
Vào giây phút đó, người ta bắt đầu
kinh nghiệm tịnh quang.
Điều xảy ra là
yếu tố tâm thức bị giam hãm
cho đến lúc đó giữa hai
tinh chất trắng và đỏ,
tiêu tan vào
lúc ấy trong
không gian của
quang minh.
Những ai đã
đi vào tịnh quang trong khi họ sống, thì sẽ
nhận ra nó vào lúc này và tự nhủ “A ! Đây là
kinh nghiệm về tịnh quang mà ta đã sống trong khi
thiền định !”
Nhận ra điều đó,họ sẽ
tức thời giải thoát trong
Pháp Thân hay Dharmakaya.
Những người chưa từng
đi vào tịnh quang sẽ không
nhận ra nó như chính
bản tánh của mình, như ánh sáng của chính mình và có thể họ sợ nó, cũng
y như đôi khi
chúng ta sợ bóng mình vậy !
Những người đã có thể
thực hành tịnh quang sẽ
đạt đến giác ngộ tức thời vào giây phút đó. Khả năng rơi lại vào trong
trạng thái vô minh huyễn hóa không đặt ra với họ ; ngược lại họ sẽ có thể giúp đỡ
vô số chúng sanh.
Với người sợ sự chói chang của ánh sáng
quang minh của chính họ,
kinh nghiệm này không kéo dài lâu, nó chỉ là một tia chớp.
Tuy nhiên, dầu kéo dài lâu mau, đó là một
kinh nghiệm được
trải qua bởi tất cả
chúng sanh trong giai đoạn này.
Tiếp theo,
chúng ta nghe những
âm thanh điếc tai, những
âm thanh ấy thật ra chỉ là âm vang của
bản tánh trong
trạng thái thanh tịnh của nó, điều mà người ta gọi là
âm thanh của
Pháp Thân. Và bởi vì người ta sợ cái ánh sáng
vô biên này, nó không gì khác hơn là
trạng thái quang minh bản nhiên của
chúng ta, người ta liền rơi vào
trở lại trong các
huyễn hóa của
nghiệp lực, giống như trước kia.
Bardo của tái sanh
Một lần nữa
chúng ta tiếp tục một tiến trình : giây phút đó
chúng ta không có chỗ nương tựa là
tinh chất của cha và của mẹ nữa để
duy trì thân xác, nhưng có một
nơi nương tựa rất
vi tế đến từ cái mà người ta gọi là kunshyé,
tâm thức nền tảng, và rồi người ta lại
một lần nữa trụ vào một
thân thể tâm thức.
Cái này
đơn giản do những khuynh hướng
thói quen từ
quá khứ. Người ta có thể tự hỏi thế nào là
thân thể tâm thức này. Nó rất giống với
thân thể tâm thức mà
chúng ta có trong
trạng thái mộng.
Trong cái
thức thân này,
chúng ta không thể
dựa vào ánh sáng bên ngoài của
mặt trời và
mặt trăng, bởi vì
chúng ta không có nữa
tinh chất của
cha mẹ. Luôn luôn, có một loại ánh sáng
cho phép chúng ta tự định hướng.
Nhưng còn nữa.
Cuối cùng các
phiền não tham, sân, si và
vô minh sẽ
trở lại đè nặng với một cường độ lớn dần, rất nặng nề, rất nguy hiểm.
Vì không có thân
vật chất mà có một
thân thể tâm thức,
chúng ta có các khả năng
thiên nhãn và
chúng ta có thể dời chỗ rất là nhanh. Ví dụ để đi Paris,
chúng ta chẳng cần xe lửa, máy bay gì, ngay khi nghĩ tới nó là
chúng ta đã có ở đó.
Tuy nhiên ban đầu vì các
thói quen nghiệp lực,
chúng ta có khuynh hướng mạnh mẽ là ở lại nơi
chúng ta đang sống, gần gũi
bà con và bạn bè thường ngày – điều này xảy ra trong những
tuần lễ đầu. Nhưng
rõ ràng điều ấy tùy từng người.
Một số người theo nghiệp của họ, không chờ lâu mà kiếm
một đời khác, số người khác phải lâu hơn, nhưng thường 49 ngày đầu là rất quan trọng.
Trong nửa đầu chu kỳ 49 ngày này,
chúng ta có những kỷ niệm về các
kinh nghiệm của
đời sống mà
chúng ta vừa
từ bỏ ; trong nửa thứ hai,
chúng ta có những
kinh nghiệm liên quan đến cuộc đời sắp tới, dù nó là gì.
Tùy theo mỗi người mà điều này có thể thay đổi.
Về sự giúp đỡ mà người ta có thể đem lại cho một người chết, dầu cho
hơi thở bên ngoài đã ngừng, đôi khi, trước khi
hơi thở bên trong cũng ngừng, có thể làm cho người ấy
trở lại với
cuộc đời. Ngay ở một giai đoạn đi
xa hơn, dù
hơi thở bên trong đã ngừng, nếu người ấy chưa
thức dậy trong
trạng thái thân thể tâm thức, còn có thể làm cho người ấy
trở lại.
Chính vì thế mà khi người ta muốn giúp đỡ một người đang chết, khi người ta biết kỹ thuật
chuyển di tâm thức và người ta có thể
thực hiện nó, thật cực kỳ quan trọng chờ đợi phút giây
chính xác, biết được những dấu hiệu và chờ đợi lúc máu đỏ và trắng bắt đầu rịn ra ở lỗ mũi và các lỗ phía dưới. Vào lúc đó người ta có thể
thực hiện phép
chuyển di tâm thức.
Khi một người vừa chết, rất quan trọng để giúp họ bằng sự
tu hành tâm linh. Tất cả mà mọi thứ mà người ta làm trên bình diện
vật chất sẽ không thể giúp cho người ấy nhiều. Một khi đã chết,
chúng ta không thể
mang theo được vật gì hết. Ngược lại, sự
tu hành tâm linh, nghĩa là những sự
cầu nguyện sẽ là một trợ giúp lớn lao.
Nếu người ta biết những người
tiến hóa nhiều về
tâm linh và họ có khả năng giúp đỡ người này, phải mời họ tới
cầu kinh cho người ấy.
Trong nửa đầu của 49 ngày, phải
thường xuyên cầu kinh cho người chết, ngay khi
tư tưởng của người chết
hiện ra trong
tâm thức của
chúng ta, phải
trả lời họ bằng những lời
cầu nguyện, vì họ đang thật sự chờ đợi những
tư tưởng tốt lành.
Cũng phải
hoàn thành các
ước nguyện trong di chúc trong 49 ngày
sau khi chết, vì điều đó
cho phép họ ra đi
bình an và
tìm thấy con đường của họ.
Nếu không thể làm, điều đó có thể làm cho họ
chậm trễ, nghĩa là dầu nhờ vào một
nghiệp quả tốt mà cơ hội cho một cuộc
tái sanh thuận lợi xuất hiện, họ lại bị trễ lại đàng sau vì để nhìn xem những
ý muốn cuối cùng có được
thi hành hay không. Thế nên cực kỳ quan trọng phải làm tròn mong muốn của một người vừa ra đi.
Người đó sắp sanh lại ở đâu ? Điều ấy
tùy thuộc vào các hành động đã làm trong
quá khứ. Nhiều
chỉ dẫn được đưa ra về
chủ đề này, theo đó điểm
cuối cùng nơi hơi nóng của
thân thể thoát ra và tan biến, hay theo cái cách và chỗ nơi máu bắt đầu rịn ra.
Đặc biệt khi một người đang
thực hiện sự ra đi, hoặc
chúng ta hay một người có
tu hành cao
tham dự, phải tìm một chỗ yên tĩnh nơi đó người ta có thể
duy trì một môi trường
thanh bình và yên lặng chung quanh người chết.
Cần phải không gây ra hay làm lay động lại các
trạng thái tâm thức liên quan đến giận dữ,
bực tức,
tham lam,
kiêu ngạo, hay ghen tuông... Phải không làm gì có thể gây ra các tâm trạng ấy bởi vì điều đó có
hậu quả là làm mạnh thêm các nghiệp
quá khứ và
điều kiện hóa
cuộc đời sắp tới của người đó. Vậy điều tốt nhất mà người ta có thể trao tặng là một môi
trường an bình.
Trong khoảng 49 ngày, phần lớn đã
tìm ra một
hình thức đời sống khác. Mặc dù các
giáo huấn cho nhiều
chi tiết về các
kinh nghiệm khác nhau, các giai đoạn
trung gian khác nhau mà người ta
vượt qua từng ngày. Nhưng
chúng ta không thể có điều đó trong lần này vậy
chúng ta hãy
chấm dứt ở đây và làm một
thiền định ngắn
... Có thể bổ ích khi đọc các bản dịch
Pháp văn hay Anh văn về
Tử thư Tây Tạng. Đó là một cách làm quen với các giai đoạn khác nhau và để
hoàn thiện sự
hiểu biết của
chúng ta. Điều ấy có thể
ích lợi cho
chúng ta, và điều ấy
cho phép chúng ta giúp đỡ người khác.