ĐIỀU TRỊ BỆNH TẬN GỐC
NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM BI MẪN
Lama Zopa Rinpoche
Nguyễn Văn Điều & Đỗ Thiết Lập dịch Việt
Nhà xuất bản Tôn Giáo, Hà Nội
PHẦN MỘT: TÂM LÝ ĐIỀU TRỊ BỆNH
1. NĂNG LỰC CHỮA LÀNH CỦA TÂM
Bản chất của tâm
Bệnh tật được chữa lành chủ yếu là do tâm chứ không phải do thân, cho
nên việc hiểu biết về bản chất của tâm vô cùng quan trọng. Bản chất tự nhiên của tâm là thanh tịnh, trong ý nghĩa là nó không đồng nhất với những lỗi lầm của tâm, với những vọng tưởng rối rắm và chướng ngại. Tất cả các sai lầm của tâm ta – sự ích kỷ, vô minh, sân hận, tham đắm, tội lỗi và những tư tưởng rối rắm khác – đều chỉ là tạm thời, không thường hằng vĩnh cửu. Và vì nguyên nhân khổ đau của ta – những vọng tưởng rối rắm và chướng ngại – là tạm thời, nên khổ đau cũng là tạm thời.
Tâm cũng là rỗng không về mặt thực hữu, hay sự hiện hữu riêng biệt tự nó
[không phụ thuộc vào gì khác bên ngoài]. Phẩm tính này của tâm còn được
gọi là Phật tánh, cho phép chúng ta có khả năng tự mình giải thoát hoàn
toàn mọi khổ đau, kể cả bệnh tật, cùng với nguyên nhân của khổ đau và đồng thời đạt tới bất kỳ hạnh phúc nào mà chúng ta muốn, kể cả hạnh phúc
tối thượng của sự giác ngộ. Vì tâm có trọn vẹn tiềm năng này nên chúng ta không cần phải cảm thấy tuyệt vọng chán nản. Chúng ta không mãi mãi gánh chịu các vấn đề bất ổn. Chúng ta có sự tự do kỳ diệu để phát triển tâm mình theo bất cứ cách nào mà chúng ta muốn. Vấn đề chỉ đơn giản là làm sao tìm ra cách thức đúng đắn để sử dụng tiềm năng này của tâm.
Thân và tâm là hai hiện tượng khác biệt. Tâm được xác định là phần sáng suốt và nhận biết các đối tượng. Giống như các hình chiếu xuất hiện trong một tấm gương, các đối tượng cũng hiện ra rõ ràng trong tâm, và tâm có khả năng nhận ra chúng. Thân là vật chất, còn tâm thì không hình tướng, không có màu sắc hay dạng thể. Thân bị tan rã sau khi chết, còn tâm thì tiếp nối từ đời này sang đời khác. Chúng ta thường nghe nói về những người ở phương Đông cũng như phương Tây có khả năng nhớ lại các kiếp trước hay thấy trước tương lai, không chỉ của bản thân họ mà cả của
những người khác. Một số người có khả năng này do bẩm sinh, nhưng một số khác phát triển qua thiền định. Một số người có thể nhớ lại những kiếp sống cách đây hàng trăm hay thậm chí hàng nghìn năm. Khi Lama Yeshe, người thầy của tôi trong nhiều năm, đến viếng các Kim tự tháp Ai Cập, ngài có thể nhớ lại rằng ngài đã từng sống ở đó trong một kiếp quá khứ.
Vấn đề ở đây là, dù cho nhiều người không tin có kiếp trước, kiếp sau, nhưng không ai thực sự chứng minh được rằng không có những kiếp sống đó.
Trong khi đó, có nhiều người nhận biết là có các kiếp trước bởi họ nhớ lại rất rõ như thể chúng ta nhớ lại những việc mới làm hôm qua. Họ nhận biết rằng sự tái sanh là có thật bởi vì tâm của họ có khả năng thấy được
những kiếp sống quá khứ và tương lai.
Kiến thức về bản chất của tâm là một chủ đề mênh mông hơn, quan trọng hơn nhiều so với kiến thức về bản chất của các hiện tượng bên ngoài tâm.
Và nếu bạn không hiểu được bản chất của tâm thì bạn không có cách nào hiểu đúng được bản chất của các hiện tượng khác về cả hai phương diện tương đối (theo quy ước) và tuyệt đối. Và ngay cả trong phương diện thế
tục, chỉ thông qua sự hiểu biết về tâm chúng ta mới có thể hiểu và xác định được chính xác các hiện tượng bên ngoài tâm hiện hữu như thế nào.
Một cách tổng quát, sự phát triển hiểu biết về tâm là giải pháp thực tiễn đối với các vấn đề bất ổn của chúng ta. Trước tiên chúng ta phải xác định nguồn gốc phát sinh các vấn đề, vì chỉ khi đó ta mới có khả năng chấm dứt được chúng và bảo đảm rằng chúng không phát sinh trở lại. Chúng ta cũng phải nhận biết các vấn đề bất ổn một cách toàn diện, vì nếu chỉ nhận biết một phần của chúng, thì khái niệm về sự giải thoát của
ta sẽ bị giới hạn.
Điều trị tâm
Việc
điều trị tâm là thiết yếu, vì
nếu không thì các
vấn đề bất ổn của
chúng ta, vốn không có điểm khởi đầu, sẽ không bao giờ
chấm dứt.
Chúng ta có thể dùng thuốc hay các
phương cách bên ngoài khác để chữa lành một
căn bệnh nào đó, nhưng bệnh sẽ tái phát nếu
chúng ta không
điều trị tâm.
Nếu không điều trị tâm thì luôn luôn có nguy cơ là ta sẽ lại tạo ra
nguyên nhân của bệnh,
chúng ta sẽ
tái diễn các
hành vi mà trước đây đã khiến cho cơ thể
chúng ta bị đau ốm. Và rồi
chúng ta sẽ bị cùng căn bệnh
đó trong các
kiếp sau, hay thậm chí ngay trong kiếp này.
Chữa bệnh bằng các
phương cách ngoài
tâm không phải là
giải pháp tốt nhất vì
nguyên nhân của bệnh không ở bên ngoài.
Vi trùng, vi-rút hay
ma quỉ... có thể
tác động như các
điều kiện bên ngoài (duyên) gây bệnh, nhưng
bản thân căn bệnh không có
nguyên nhân từ bên ngoài.
Tuy nhiên, người phương Tây thường cho rằng các
điều kiện bên ngoài gây ra một căn bệnh nào đó chính là
nguyên nhân của bệnh. Nhưng
nguyên nhân của bệnh không ở bên ngoài; nó ở trong tâm – hay cũng có thể nói nó chính là tâm.
Bệnh tật gây ra bởi tâm
ích kỷ,
vô minh,
sân hận,
tham luyến, các
phiền
não khác, và bởi các
hành vi bất thiện xuất phát từ các
tâm niệm bất thiện này. Các
tư tưởng và
hành vi bất thiện của ta để lại dấu ấn tạo thành
chủng tử trong tâm, và
các chủng tử đó
thể hiện ra thành bệnh hay các
vấn đề bất ổn khác.
Các chủng tử đó cũng tạo
điều kiện cho các
vọng tưởng và các
hành vi bất thiện tiếp tục sinh khởi.
Một dấu hiệu
thực thể cần phải có
nguyên nhân vật thể, nhưng
nguyên nhân
vật thể lại
sinh khởi từ
nguyên nhân nội tại – tức là
các chủng tử do các
tư tưởng và
hành vi bất thiện để lại trong tâm. Để hiểu về bệnh một cách đầy đủ,
chúng ta phải hiểu được
nguyên nhân nội tại này, vốn là
nguyên nhân thực sự của bệnh tật và cũng tạo ra các
điều kiện vật thể gây bệnh. Nếu
chúng ta không
đếm xỉa gì đến
nguyên nhân nội tại của bệnh
thì ta sẽ không thực sự chữa lành được bệnh.
Chúng ta phải
nghiên cứu sự phát triển của bệnh và
nhận ra rằng
nguyên nhân của bệnh là ở trong tâm. Một khi
chúng ta nhận biết được như vậy,
tự nhiên chúng ta hiểu được rằng việc chữa trị bệnh phải bắt đầu
từ tâm.
Những gì tôi vừa
giải thích không chỉ
phù hợp với
giáo lý đạo Phật mà còn
phù hợp với cả những
kinh nghiệm sống của
chúng ta.
Nghiên cứu cho thấy rằng
sức khỏe của một người
liên quan rất nhiều đến
thái độ ứng xử
hằng ngày và khả năng
duy trì tâm tích cực. Lấy ví dụ, trong sách "The Uncommon Wisdom",
tác giả Fritjof Capra đã
phỏng vấn các
bác sĩ và các
nhà tâm lý học nổi tiếng về
nguyên nhân của bệnh ung thư.
Dựa vào các
nghiên cứu, họ đã
kết luận rằng, bệnh ung thư bắt nguồn từ các
thái độ bi quan tiêu cực và nó có thể được chữa trị bằng việc phát triển các
thái độ lạc quan tích cực.
Quan điểm khoa học này đang tiến
đến gần hơn
với
giáo lý Đức Phật.
Mỗi
vấn đề bất ổn là một
sự tạo tác
cụ thể của tâm. Nếu
nguyên nhân của một
vấn đề bất ổn đang
hiện hữu trong tâm, thì bất ổn đó
chắc chắn sẽ
thể hiện ra,
trừ phi ta
thanh tịnh hóa được
nguyên nhân đó. Nếu
nguyên nhân nội tại của một
vấn đề bất ổn đang
hiện hữu thì các
điều kiện bên ngoài liên quan đến bất ổn đó cũng sẽ
hiện hữu, vì chúng được tạo ra từ
nguyên nhân nội tại. Nói cách khác, các
chướng ngại bên ngoài bắt nguồn từ các
chướng ngại bên trong. Ngay cả các
điều kiện bên ngoài của một
vấn đề bất ổn cũng được tạo ra bởi tâm ta. Các
yếu tố bên ngoài
trở thành điều kiện của một
vấn đề bất ổn là vì có
nguyên nhân nội tại trong
tâm ta;
nếu không có
nguyên nhân nội tại thì dù các
yếu tố bên ngoài đang
hiện hữu, chúng cũng không thể
trở thành các
điều kiện gây bất ổn.
Nếu không có các
chướng ngại bên trong, sẽ không có các
chướng ngại bên ngoài.
Lấy
thí dụ về bệnh ung thư da. Người ta thường cho rằng
nguyên nhân của bệnh này là do phơi trần tắm nắng quá lâu.
Tuy nhiên, nếu
nguyên nhân chính là
ánh nắng của
mặt trời thì bất cứ ai tắm nắng cũng mắc phải bệnh
này.
Thực tế là không phải bất kỳ ai tắm nắng cũng bị bệnh, do đó
ánh nắng mặt trời không phải là
nguyên nhân chính. Phơi trần dưới nắng là một
điều kiện gây bệnh ung thư da, nhưng đó không phải
nguyên nhân chính
của bệnh.
Nguyên nhân chính của bệnh ung thư da là ở bên trong, không phải bên ngoài.
Nguyên nhân chính là tâm. Đối với những ai có sẵn
nguyên
nhân ung thư da ở trong tâm thì việc phơi da trần dưới
ánh nắng là
điều
kiện để ung thư da phát triển. Với những người không có
nguyên nhân ung
thư da ở trong tâm thì việc phơi trần lâu dưới
ánh nắng sẽ không
trở thành điều kiện cho bệnh đó phát sinh.
Như tôi đã nêu ở trước, nguồn gốc những bất ổn của
chúng ta nằm ở trong tâm. Đó là những cách
suy nghĩ không khéo léo.
Chúng ta phải
nhận biết [
phân biệt] được những cách
suy nghĩ đúng đắn, vốn mang lại
hạnh phúc, và những cách
suy nghĩ sai trái, vốn dẫn tới
đau khổ. Có những cách
suy nghĩ làm phát sinh
vấn đề bất ổn, có những cách
suy nghĩ khác không gây bất ổn. Nói cách khác,
hạnh phúc hay khổ đau đều
từ tâm ta mà ra. Tâm
chúng ta tạo ra
cuộc đời ta.
Thiền định là dược phẩm
Các dược phẩm bên ngoài có thể được dùng để chữa trị một căn bệnh thể xác; trong khi đó, dược phẩm bên trong cần được dùng để chữa trị
nguyên nhân của bệnh và
bảo đảm là bệnh không bao giờ tái phát.
Vậy dược phẩm bên trong là gì? Đó là
thiền định.
Thiền định là dùng tâm của mình, các
thái độ sống
tích cực của mình, để chữa trị cho chính mình. Và định nghĩa này không chỉ
giới hạn trong việc chữa trị một bệnh nào đó, mà còn
áp dụng rộng hơn,
bao gồm việc
điều trị tất cả mọi
vấn đề
bất ổn cùng với
nguyên nhân của chúng. Bệnh tật và tất cả mọi
vấn đề bất ổn khác đều được tạo ra bởi
các chủng tử
bất thiện đang tồn tại trong tâm, cho nên việc
loại bỏ nguyên nhân của các bất ổn cũng phải được
thực hiện từ tâm. "Thiền định" là tên gọi
đơn giản của tất cả những
gì mà
chúng ta làm với tâm, và đó là cách chữa trị tốt nhất vì nó không
gây ra
phản ứng phụ.
Thiền định là chìa khóa chính để chữa trị
đau khổ, vì
đau khổ cũng như
hạnh phúc đều do tâm mà ra.
Thiền định là cách
duy nhất để
dập tắt nguyên nhân của
đau khổ và tạo ra
nguyên nhân của
hạnh phúc. Các
phương tiện bên ngoài không thể làm được như vậy. Chỉ nhờ vào tâm
chúng ta mới làm được. Nếu chỉ dùng thuốc, hay chỉ dùng một pháp
quán tưởng đơn giản mà thôi, thì có thể
điều trị được một bệnh nào đó, nhưng không đủ để
điều trị tâm. Ngoài
thiền định ra, sẽ không còn cách nào khác hơn để chữa trị bệnh cùng với
nguyên nhân của bệnh.
Trong
thiền định, các
thái độ tích cực hiền thiện của ta sẽ
trở thành dược phẩm bên trong để
điều trị tâm và
giải quyết nguyên nhân của mọi
vấn đề bất ổn. Khi
chúng ta phát triển được các phẩm tính
tốt đẹp của tâm thì sự chữa trị mới
thành công. Những
suy nghĩ như thế này sẽ
mang đến sự
an lạc và chữa lành bệnh tật; trong khi đó, những
suy nghĩ như thế kia sẽ
mang đến rối loạn và gây
tác hại. Bệnh tật và tất cả những
vấn đề khác nữa trong cuộc sống
chúng ta đều bị những
tâm không lành mạnh gây ra. Một
tâm không lành mạnh hàm nghĩa là bất cứ
hoạt động tâm thức nào
quấy nhiễu chúng ta và làm cho ta mất
hạnh phúc, và một
thân thể không
lành mạnh phát sinh từ một
tâm không lành mạnh.
Thiền định không chỉ chữa lành bệnh tật mà còn mang sự
bình an lớn lao đến cho tâm.
Bản chất của các
suy nghĩ tích cực là làm cho
chúng ta cảm thấy thoải mái và
thanh thản. Những
suy nghĩ tích cực tốt nhất là các
tâm từ ái và bi mẫn.
Tâm từ ái là tâm
ao ước người khác có được
hạnh phúc và
nguyên nhân hạnh phúc; tâm
đại từ là tự mình nhận lấy
trách nhiệm mang
hạnh phúc và
nguyên nhân hạnh phúc đến cho người khác.
Tâm bi
mẫn là ước muốn cho những người khác được
thoát khỏi khổ đau và
nguyên nhân khổ đau; tâm
đại bi là tự mình nhận lấy
trách nhiệm làm cho người khác
thoát khỏi khổ đau và
nguyên nhân của khổ đau. Việc phát sinh các
thái độ hiền thiện này có
năng lực giúp
điều trị được bệnh.
Tâm bi mẫn là người thầy thuốc giỏi nhất.
Năng lực chữa bệnh mạnh nhất đến từ việc phát sinh
tâm bi mẫn đối với tất cả
chúng sinh, không
phân biệt nòi giống, quốc tịch,
tín ngưỡng hay
họ hàng thân thích.
Chúng ta cần có
lòng bi mẫn đối với tất cả
chúng sinh hữu tình, bất kỳ ai cũng mong muốn được
hạnh phúc và không muốn phải chịu khổ đau.
Chúng ta cần phát triển không chỉ
tâm bi – ước muốn
giải thoát cho tất cả
chúng sinh khỏi mọi khổ đau – mà còn cả tâm
đại bi – tự mình nhận lấy
trách nhiệm làm việc đó. Điều này sẽ
mang đến năng lực điều trị bệnh một cách mãnh liệt và
triệt để.
Tâm từ và
tâm bi đều có
bản chất bình an và
lành mạnh,
hoàn toàn khác với
bản chất của các tâm
sân hận,
vô minh,
tham lam,
kiêu căng hay ganh tị. Cho dù một người có
tâm bi mẫn sẽ
chân thành quan tâm đến người khác
và
cảm thấy như không thể
chịu đựng nổi khi thấy bất kỳ ai đó đang
đau khổ, nhưng
bản chất cốt lõi của tâm họ vẫn là sự
bình an.
Ngược lại, loại tâm khởi lên
từ ý xấu ác, muốn hãm hại người khác, không
thể
thư thái bình an; nó giống như một cái gai sắc nhọn đâm vào tim ta.
Sự
tham ái cũng có nỗi
đau đớn riêng của nó;
chúng ta như thể bị cột chặt, bị vắt ép và rất
đau đớn khi phải chia cách với đối tượng ta
thèm khát. Sự
tham ái cũng che mờ
tâm thức chúng ta, tạo ra một bức tường ngăn cách
chúng ta với
thực tại. Khi
chúng ta tham luyến một người nào đó, hay thậm chí chỉ là một con vật,
chúng ta không thể thấy được
thực tiễn đau khổ của đối tượng đó hay
phát khởi được
lòng bi mẫn từ trái tim
ta, vì
tham ái đã che mờ tâm ta.
Tham ái ngập đầy tâm ta, không còn chỗ
để
lòng bi mẫn phát sinh. Ngay cả khi ta giúp đỡ đối tượng ấy, ta cũng luôn chờ đợi sự đền đáp.
Chúng ta không giúp đỡ chỉ vì đối tượng ấy đang
đau ốm hay bị nguy hiểm, mà là với sự
mong chờ sẽ được đền đáp trong tương lai theo một cách nào đó.
Khi sự
tham ái choán đầy tâm ta, thật khó để sinh
lòng bi mẫn. Nếu
suy xét kỹ, ta sẽ thấy rằng khi tâm ta ngập tràn sự
tham ái mãnh liệt, ta chỉ còn
quan tâm duy nhất đến những gì ta muốn.
Mục đích chính của ta là
hạnh phúc của riêng mình. Thậm chí nếu ta có giúp người khác cũng chỉ vì ta muốn nhận lại được một điều gì đó. Tâm ta bị
rối loạn và che chướng. Đối với người mà ta
tham luyến mãnh liệt, ta không thể thấy được
rằng
ít nhất họ cũng quan
trọng như ta;
chúng ta không thể
yêu thương và
chân thành giúp đỡ họ.
Dùng tâm
đại bi để
điều trị tâm,
chúng ta sẽ có thể
giải quyết các
vấn đề bất ổn của chính mình và cả của những người khác.
Ý niệm tích cực của
tâm bi mẫn không chỉ giúp ta khỏi bệnh mà còn
mang đến cho ta sự
bình an,
hạnh phúc và
toại nguyện. Nó giúp ta có khả năng
vui hưởng cuộc sống. Nó cũng sẽ mang
bình an và
hạnh phúc đến cho
gia đình và bạn bè, những người quanh ta. Vì
chúng ta không có những
tư tưởng xấu ác [gây hại] nhắm vào họ, nên những người – hay thậm chí cả loài vật –
tiếp xúc với ta đều sẽ
cảm thấy hạnh phúc. Khi
chúng ta có
lòng tốt và
tâm từ bi,
mối
quan tâm chính của ta sẽ luôn là việc tránh không làm
tổn hại người
khác, và điều này tự nó đã là một sự
điều trị bệnh. Người có
tâm bi mẫn
là người có
năng lực chữa trị mạnh mẽ nhất, không chỉ đối với những bệnh tật và bất ổn
của riêng họ, mà với cả những bệnh tật và bất ổn của người khác nữa. Một người có
tâm từ bi có thể chữa lành bệnh cho người khác chỉ
đơn giản bằng sự có mặt của mình.
Điều trị bệnh tận gốc
Mỗi khi thiền định về lòng bi mẫn đối với tất cả chúng sinh, chúng ta
tích tụ được vô lượng công đức, là nhân của tất cả những thành công và hạnh phúc; mỗi lần chúng ta tu tập thiền định vì lợi ích của tất cả chúng sinh, chúng ta thực hiện việc điều trị bệnh tận gốc rễ.
Việc phát triển lòng bi mẫn cũng giúp chúng ta phát triển trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ thực chứng tánh Không, bản chất rốt ráo của cái tôi, của
tâm và của tất cả các hiện tượng khác. Trí tuệ này từng bước làm mỏng dần các đám mây che mà đang lúc này tạm thời phủ tối tâm ta, cho đến khi
tâm ta được trong sáng như bầu trời xanh trong suốt tràn ngập ánh sáng.
Trí tuệ này trực tiếp thanh tịnh hóa tâm ta. Nó giúp cho tâm thoát khỏi
vô minh, sân hận, tham lam và mọi suy nghĩ quấy nhiễu khác nữa; nó giải
thoát tâm ta khỏi các mầm mống của các suy nghĩ phiền não này, và thậm chí kể cả những chủng tử của chúng. Tất cả những che chướng, kể cả những
che chướng vi tế nhất, đều hoàn toàn được thanh tịnh hóa bởi trí tuệ này.
Với sự phát triển đầy đủ trí tuệ và từ bi, tâm ta sẽ được giải thoát trọn vẹn khỏi các thứ che chướng từ thô đến vi tế. Vào lúc đó, tâm đạt được sự toàn giác hay biết được tất cả. Một tâm toàn giác có khả năng trực tiếp thấy được quá khứ, hiện tại và vị lai; có khả năng thấy biết được tâm của tất cả chúng sinh hữu tình và rõ biết phương pháp để giải thoát họ khỏi các vấn đề bất ổn và mang đến cho họ hạnh phúc, kể cả hạnh
phúc tối thượng của sự giác ngộ viên mãn.
Hiện nay sự hiểu biết của chúng ta rất giới hạn. Thậm chí để biết được tình trạng sức khỏe của chính mình, chúng ta cũng phải dựa vào các bác sĩ, máy móc, xét nghiệm máu, vân vân... Ngay cả trong lãnh vực nhỏ hẹp của việc điều trị bằng thuốc men, chúng ta cũng không thể hiểu được các vấn đề bất ổn của người khác cũng như nguyên nhân và cách chữa trị thích
hợp. Hiểu biết của chúng ta rất giới hạn, khả năng giúp người khác của chúng ta cũng thế. Khả năng thấy biết tương lai của ta cũng rất giới hạn. Chúng ta không thể nói trước được những gì sẽ xảy ra vào năm tới, tháng tới hay tuần tới, thậm chí vào ngày mai, nói gì đến những việc của
kiếp sau!
Năng lực thân, khẩu và ý của chúng ta bị giới hạn là vì những che chướng
tâm thức. Tuy nhiên, khi chúng ta giải thoát được dòng tâm thức tương tục của chúng ta khỏi những che chướng thô và vi tế đó, thì sẽ không có gì hạn chế năng lực của chúng ta. Tâm ta không chỉ có khả năng thấy biết
trực tiếp tất cả quá khứ, hiện tại và vị lai, mà còn tràn ngập khắp cả mọi nơi. Tâm ta sẽ có khả năng tiếp cận tức thì bất kỳ đối tượng nào được ta nghĩ tới, không một chút chướng ngại. Lúc tâm chúng ta được toàn
giác, có nghĩa là giải thoát tất cả các che chướng thô và vi tế, chúng ta sẽ hoàn toàn thoát khỏi tâm thô lậu và thân thô lậu. Vào lúc ấy, chúng ta sẽ không bị giới hạn bởi bất cứ cái gì. Đây là sự tự do tối thượng.
Khi mặt trời mọc lên, ánh sáng sẽ tức thời được phản chiếu khắp nơi. Ánh
sáng được phản chiếu ở khắp những vùng nước không bị che khuất trên mặt
đất – khắp các đại dương, dòng suối và ngay cả trên giọt sương mai. Cùng một cách thức như vậy, vì mọi che chướng thô và vi tế đã được loại bỏ, tâm toàn giác tự nhiên tràn ngập khắp mọi nơi. Bất cứ khi nào chủng tử hiền thiện của một chúng sinh hữu tình đạt đến sự chín mùi, tâm toàn giác lập tức thể hiện ở dạng thích hợp với mức độ tâm của chúng sinh đó.
Nếu họ có tâm thanh tịnh, tâm toàn giác sẽ thể hiện ở dạng thanh tịnh để dẫn dắt họ; nếu tâm họ chưa thanh tịnh, nó thể hiện ở dạng không thanh tịnh. Bởi vì tâm toàn giác thấy được sự hiện hữu trọn vẹn ở mọi thời khắc, nên khi chủng tử hiền thiện chín mùi trong tâm một chúng sinh
thì tâm toàn giác tức thì hiển lộ để dẫn dắt chúng sinh đó đi từ hạnh phúc này đến hạnh phúc khác, cho tới hạnh phúc vô thượng của giác ngộ viên mãn. Đây là ý nghĩa của năng lực toàn hảo.
Tuy nhiên, kiến thức và năng lực không thôi thì chưa đủ. Cần có lòng từ bi. Mặc dù tâm toàn giác thấy biết mọi sự, nhưng động lực cứu giúp người
khác chính là lòng từ bi. Chẳng hạn, một người có khả năng hiểu biết, nhưng không có nghĩa là họ sẽ dùng kiến thức của họ để giúp đỡ người khác. Kiến thức và năng lực có thể trở thành chướng ngại nếu không có lòng từ bi. Cho dù họ biết cách giúp bạn và họ có năng lực để làm, nhưng
rất có thể họ không giúp bạn, ngay cả khi bạn yêu cầu. Ngược lại, người
có lòng từ bi thì lúc nào cũng sẵn sàng ra tay giúp đỡ khi bạn nhờ đến.
Chính lòng từ bi giúp ta hoàn thiện trí tuệ và năng lực. Lòng từ bi thúc
giục ta phát triển tâm vì lợi lạc của người khác. Chúng ta cần phát khởi và hoàn thiện tâm từ bi, cũng như phát triển lòng từ bi vì lợi lạc cho tất cả chúng sinh hữu tình, để nhờ đó ta có thể phát triển hơn nữa tất cả các phẩm tính tốt đẹp khác. Khi có được lòng từ bi hoàn thiện cùng với kiến thức và năng lực, ta mới có thể thực sự giúp người khác.
Sự chuyển hóa này của tâm chính là sự điều trị tận gốc rễ. Tôi chỉ là người nói ra tất cả những điều này, nhưng việc điều trị thực sự phải đến
từ chính bạn, từ tâm thức bạn. Việc điều trị sẽ có được thông qua sự tu
tập thiền định của bạn, thông qua những suy nghĩ tích cực, mà về cơ bản
có nghĩa là thông qua trí tuệ và lòng từ bi của chính bạn. Sự thiền định về tánh Không, về tâm từ, tâm bi giúp chấm dứt nhu cầu điều trị, vì
thông qua sự điều trị tận gốc rễ này, bạn sẽ không bao giờ còn bị đau ốm nữa.