Và 18 Căn Trần Thức Của Phật Giáo
Dark Matter & Dark Energy and Buddhism’s 18 Spheres
* Lê Huy Trứ
Naama-Ruupa
(sắc danh)
|
5 Pañca-skandha (ngũ uẩn, zh. wǔyùn 五蘊)
|
6 Dhaatu
(6 phân tử)
|
12 Aayatana
(căn trần)
|
18 Dhaatu
(18 giới thức)
|
Ruupa
(sắc, form)
|
1. Aggregate of form (zh.色; sa., pi. rūpa), Sắc uẩn
|
1. earth (thổ, (pa.thavi)
2. water (Thủy,aapo) 3. fire (hỏa,tejo) 4. air (khí,vaayo) 5. space (không gian, akaasa) |
1. eye (mắt,cakkhu)
2. ear (tai,sota) 3. nose (mũi,ghaa.na) 4. tongue (lưỡi,jivhaa) 5. body (thân,kaaya) 7. the visible (thấy, ruupa)
8. sound (nghe,sadda) 9. smell (ngữi,gandha) 10. taste (nếm,rasa) 11. touch (sờ,pho.t.thabba) 12. some Pháp,dhamma |
1. mắt (eye, cakkhu)
2. tai (ear, sota) 3. mũi (nose, ghaa.na) 4. lưỡi (tongue, jivhaa) 5. thân (body, kaaya) 7. thấy (visible, ruupa)
8. nghe (sound, sadda) 9. ngửi (smell, gandha) 10. nếm (taste, rasa) 11. sờ (touch,pho.t.thabba) 12. pháp (some, dhamma |
Naama
(danh, name)
|
5. Aggregate of consciousness
(zh. 識, sa. vijñāna, pi. viññāṇa), Thức uẩn along with
2. aggregate of feeling (vedanaa-kkhandha) Thọ uẩn
3. aggregate of perception (zh. 想, sa. saṃjñā, pi. saññā), Tưởng uẩn 4. aggregate of disposition (zh. 行, sa. saṃskāra, pi. saṅkhāra), Hành uẩn |
6.consciousness (viññāṇa), Tâm thức
|
6. mind (tâm trí, mano)
12. some Pháp,dhamma
|
6. thức (mind, mano)
12. pháp (some, dhamma
13. thức thấy (visual consciousness, cakkhu-viññāṇa) 14. thức nghe (auditory consciousness, sota-viññāṇa) 15. thức ngửi (olfactory consciousness, ghaana-viññāṇa) 16. thức nếm (gustatory consciousness, jivhaa-viññāṇa) 17. thức xúc (tactile consciousness, kaaya-viññāṇa) 18. tâm thức (mental consciousness, mano-viññāṇa) |
Chúng sinh, đặc biệt nhân sinh có cùng cấu tạo lượng tử, tế bào, tính linh giống như vật chất, thiên hà trong vũ trụ. Tất cả được cấu tạo rất tinh vi từ căn bản của Vũ Trụ Quan với nước (không khí,) thảo mộc, 18 kiến trúc giới trong bộ não của nhân loại, tâm thức nhân tạo trong computer và những ‘tác động lượng tử từ xa’ luôn luôn tương ứng và tương đồng như tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ. Đặc điểm của liên kết lượng tử (quantum entanglement) là chúng được kết nối bằng một phương thức kỳ lạ mà Albert Einstein gọi là “Spooky action at a distance (tác động ma quái từ xa.)”
Sentient beings, specially human beings have a same origin not only as the single cell organisms but also have the same origin as particles, atoms, planets, stars, and the galaxies. There is a very well defined architecture that governs this universal creation process and together formed the basis of a Universe’s Cognitive Process existing in particles (spooky actions as Albert Einsteincalled it,) water, plants, Eighteen Sphere structures in human brain, artificial consciousness in computer, which is created by Consciousness.
Trong Phá Mê Khai Ngộ, Chương 26. Lục Căn, Lục Trần, Lục Thức, Lê Sỹ Minh Tùng viết: “Tâm [phan duyên, tâm vô minh, THL] thì dựa theo Lục căn để nhận biết Lục trần và phân biệt thành Lục thức mà Ngũ uẩn thì biến chuyển rất nhanh thành thử Tâm của con người cũng phải chạy theo [ví như Tâm viên , ý mã.] Ý niệm đua nhau sinh khởi trong tâm thức của con người. Ý niệm sau thay thế ý niệm trước vì thế mà vọng tưởng không bao giờ dừng lại. Vọng tưởng còn thì chân tâm biến mất.” Ngược lại, khi không còn vọng tưởng, kỳ tâm xuất hiện. Đó là lý do, Đức Phật dạy chúng sinh phải giữ tâm của mình cho được thanh tịnh bằng cách loại bỏ tất cả mọi phiền não. Bởi vì vọng tưởng và phiền não biến tâm của chúng ta thành mê muội, mà vô minh là cội nguồn của tham, sân, si ‘kéo’ (pull) theo đau khổ trầm luân trong luân hồi.
Consciousness is also expressed in the basis of Hundred Dharmas that has the characteristics of existing in the form of energy, working within spaces, and existing in emptiness. The Hundred Dharmas or the Universe’s creation process started with a Mind where the Mind are of eight kinds – the Eye, Ear, Nose, Tongue, Body, Mind, Manas, Alaya Consciousness. However, the main creators are the first six Consciousness and the last two are auxiliary.
Tâm cũng được diễn tả trong căn bản của 100 Pháp (Hundred Dharmas) với sắc tướng hiện tượng trong dạng năng lượng, bàng bạt trong không gian, hiện hữu trong chân như. ‘Thiên pháp’ (Hundred Dharmas) hay chu trình cấu tạo của vũ trụ bắt đầu từ tâm thức. Tâm thức gồm có mắt, tai, mũi, lưỡi, trí, mạc-na thức, và a lại da thức. Tuy nhiên, những cái cấu tạo chính là 6 cái căn đứng trước nhất còn 2 cái thức sau cùng chỉ là phụ thuộc.
Tất cả do tâm tạo! (Ý Phật nói?) “With our thoughts we make the world. The mind is everything. What you think, you become.” Buddha (?)
Tâm tạo ra tất cả trong vũ trụ chỉ đúng một nữa. Có thể, 18 căn trần thức lừa bịp chúng ta bởi cái đo lường không chính xác của chính nó về thế giới hiện tượng và thực tại của nó có thể là ảo, không thực đúng như vậy. Cho nên, thực tại là không thực tại mà là thực tại ở trong tâm phan. Thực tại có thể chỉ đơn thuần là cấu trúc của ma trận (matrix) của tâm thức. Thấy vậy mà không phải như vậy! Điều có thể xảy ra đó là thực tại của chúng ta thực sự là không gian 2 chiều (X và Y,) không gian 3 chiều (Z,) và 4 chiều (thời gian) chỉ đơn thuần là ảo, trống không, như đã được giải thích rất quái gỡ trong cơ khí lượng tử (quantum mechanics.)
The thought makes the entire universe is only half truth. Perhaps, our human six conscious senses are deceiving us by their inaccurate measurements of our world (Samsara,) existence maybe just an illusion, and reality isn't real. Thus, all of reality exists only in our minds. Everything we know maybe merely a constructed matrix of our thoughts. Thing might not appear as we see and think as it is. One possible implication is that the reality is actually two-dimensional (X and Y,) the three-dimensional space (Z,) and the fourth-dimensional (time) are merely a holography, which would explain some of the wackiness of quantum mechanics.
Đáo bỉ ngạn, trở lại bờ bên kia, có nghĩa là bỏ sáng (quang) trở về tối (dark) theo ngôn ngữ quái đản (spooky language) của con người. Mà bờ tối đó vì không hấp thụ hay phản chiếu quang (ánh sáng) nên có thể không có luôn âm (tiếng động.) Nếu chúng ta được cấu tạo và tiến hoá (evolution) trong môi trường đen tối đó thì chúng ta sẽ không cần ngũ uẩn và lục căn. Chúng ta sẽ ‘không mắt, không tai, không mũi, không lưỡi, không thân và không thức’ vì tất cả nhửng giác quan này vô dụng bên bờ bên kia. Chúng ta sẽ không là con người tầm thường mà có thể là ‘thượng đế?’ Điều này cho thấy Bát Nhã Tâm Kinh đã diễn tả chính xác cái ‘ngũ uẩn giai không,’ cái tánh Không tuyệt diệu bên bờ tối đó mà khoa học đến bây giờ vẫn còn chưa thông nổi ý này.
Back to another side, in this case means ‘go to bright side with light’ ‘back to’ the dark side without light with dark energy and dark matters. Since dark side neither emits light nor absorbs light and probably it produces no noise and if we are evolved in those environments perhaps we would not need these six sense organs. We might have no eyes, no ears, no nose, no tongue, no body, may be no mind as expressed beautifully in Buddhism Heart Sutra, which are the five aspects of human existence are empty and six sense organs are non-existence, all things are emptiness. If that the case then we might not call ourselves as a human being but ‘super-being?’
Tóm lại, cái quan niệm phổ thông từ trước đến nay của tâm tạo ra tất cả vô lượng vật trong vũ trụ chỉ thật sự đúng trong vũ trụ hiện tượng với vật chất hữu hình có thể thấy, nghe, ngữi, nếm, sờ và biết được bởi tập tục từ vô lượng kiếp đầy vô minh của 18 Pháp giới, đó chỉ là 5% của sắc tướng quáng quang âm trong vũ trụ, trong 5% đó đầy ắp ảo sắc tạo bởi ngũ uẩn qua phản chiếu quang tạng ảo ảnh và những tiếng động (âm) ồn ào không thật tại từ tâm phan duyên được đo lường bởi 18 căn trần thức giới của Phật Giáo. Nó không đại diện cho ‘bờ bên kia’ không có ngũ uẩn, khác với ‘ngũ uẩn hiện hữu nhưng chỉ là giai không’ kiến bởi ‘Quang Âm’ Bồ Tát ở ‘bến bên này.’ Bờ bên kia của chư Phật không có ngũ uẩn như bờ bên này để chiếu kiến giai không. Bờ bên kia đầy không, vơi sắc; bến bên này đầy sắc, vơi không. Có không, không có!
In short, the concept of ‘consciousness creating everything in the Universe’ is only true for an observable universe, which is only 5% observable matters, and full of non-emptiness that formed by five aggregates and consciously measurable by 18 Buddhism’s Spheres. It does not accountable for another ‘dark side,’ which is subconsciously full emptiness of five aggregates. The ultimate truth of ‘emptiness of emptiness’ should be resolved by the modified Heart Sutra (The Prajñāpāramitā Sutra) formula “asBodhisattva Avalokitesvara practiced the profound Prajnaparamita, Bodhisattva Avalokitesvara saw that the ‘universe’ is ‘emptiness of emptiness.’ That is non-dualism!
Cho nên phải “Quán Tự Tại Bồ Tát hành thâm diệu viên giác Bát Nhã Ba La Mật Đa thời, chiếu kiến vũ trụ giai ‘không của không’.” Khi đó mới ‘như thị viên giác’ (thấy rốt ráo với không tánh, bất nhị, anh minh, sáng suốt tròn đầy) thấu đạt được tâm tướng là tâm không; không tâm là tướng tâm!
Tài Liệu Tham Khảo (References:)
- Tag :
- Lê Huy Trứ