Bảng
Chú
Giải Thuật Ngữ
Abhidharma.
Giáo lý A Tỳ Đàm. Hệ thống hiện tượng học và thần học
của đạo Phật, bao gồm sự mô tả và phân tích thân và
tâm con người, các bộ chúng sanh, bản chất và sự hình thành
vũ trụ và con đường đến giải thoát.
Adhisara.
(Tạng,
‘phrul ‘khor) Các tư thế và luyện tập của thân
dùng để nâng cao thực hành thiền quán của hành giả.
Anuyoga.
Một
loại thực hành tantric của Nyingma, tương ứng với giai
đoạn hoàn thiện. Thực hành Anuyoga theo sau Mahayoga và tiến
đến Atiyoga.
Lỗ
mở
của địa ngục. Hậu môn, được gọi như vậy vì khi
ý thức rời khỏi thân người vào lúc chết bằng đường
hậu môn, chỉ ra rằng người đó sắp tái sanh vào cõi địa
ngục.
Arya.
Một
cá nhân đã đạt được nhận biết bất nhị, thiền
định phi khái niệm của thực tại tối thượng hoặc tánh
không.
Atiyoga.
Đồng
nghĩa của Đại Viên Mãn (Tạng, rdzogs chen), một hệ
thống lý thuyết và thực hành được đi theo chủ yếu bởi
luật của Nyingma, Phật giáo Tây Tạng, mục tiêu đạt giải
thoát, trực tiếp biết chắc về bản tánh cốt lõi của sự
nhận biết.
Địa
ngục
Avici. A Tỳ. Theo truyền thống sutra, là nơi hành hạ
đau đớn nhất của mười tám tầng địa ngục.
Bardo
(Phạn,
antarabhava). Trạng thái trung gian theo sau cái chết và
trước lúc tái sanh kế tiếp của một người. Nói rộng hơn,
thuật ngữ bardo có thể ám chỉ bất kỳ sáu tiến trình chuyển
tiếp của lúc sống, nằm mộng, nhập định, cận tử, tự
thân thực tại và sự trở thành.
Bindu
(Tạng,
thig le). Dịch tinh túy, hay “giọt”, đi qua kinh mạch
trung ương vi tế trong thân người; hình một quả cầu nhỏ,
thường được quán tưởng như bản tánh của ánh sáng.
Bodhicitta.
Tâm
linh Tỉnh thức, hay khát vọng vị tha để đạt được
Tinh thần Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng
sanh. Trong tantra, bodhicitta trắng và đỏ là hai loại bindu thường
định vị trong kinh mạch trung ương tại đỉnh đầu và dưới
rốn, hội tụ lại ở ngực trong tiến trình cận tử và trong
dạngï nhập định sâu.
Bodhisttva.
Một
cá nhân mà Tâm linh Tỉnh thức dễ dàng khởi lên như
động cơ ban đầu của họ, phát sinh lòng từ ái và lòng
bi to lớn.
Lỗ
mở
Brahma. Nơi mở ra trong kinh mạch trung ương tại đỉnh
đầu, được gọi như vậy vì khi ý thức rời khỏi thân
vào lúc chết qua con đường của đỉnh đầu, nó ám chỉ
rằng người đó sắp được tái sanh vào cõi trời hay Brahma
(Phạm Thiên).
Xuyên
thấu
(Tạng, khregs chod). Giai đoạn đầu tiên của hai giai
đoạn chính trong thực hành của Đại Viên Mãn, mục tiêu
nhằm đạt được việc duy trì nhận biết trực tiếp của
bản tánh cốt tủy của tâm.
Phật
tánh.
Bản tánh cốt tủy của tâm, theo Đại Viên Mãn là không
có gì khác hơn tâm Phật.
Citta.
Thuật
ngữ tiếng Phạn này thường ám chỉ tâm, nhưng trong
giáo lý cao hơn của Đại Viên Mãn, đôi lúc nó chỉ cho ngực.
Thanh
tịnh
quang. Bản tánh cốt lõi của tâm, đó là không thể
nghĩ bàn, tuy nhiên được đặc tính hóa một cách ẩn dụ
như bản tánh của tánh không và tánh sáng.
Daka.
Đối
tác nam của dakini; daka thường biểu hiện như vị bổn
tôn bảo vệ và phục vụ giáo lý đạo Phật và hành giả.
Dakini.
Người
nữ tâm linh tham gia vào các hoạt động giác ngộ cho
lợi ích của thế gian.
Damaru.
Một
loại trống lắc bằng tay dùng trong nghi lễ tantric.
Deva.
Chư
thiên hay “trời”; thành viên cao nhất của sáu bộ chúng
sanh trong vòng sinh tử, họ kinh nghiệm cực lạc, năng lực
và nhận biết mạnh mẽ, tất cả điều này sẽ biến mất
khi họ chết từ trạng thái hiện hữu đó.
Dharmakaya.
Pháp
Thân, Tâm của một vị Phật, được nói là vô biên
về mặt trí tuệ rộng mở, lòng bi và năng lực.
Nguyên
tố
của năng lượng sự sống. Năng lượng, hay “gió” chảy khắp cơ thể, có năm loại năng lượng sự sống chính
và phụ, mỗi loại có chức năng sinh lý học khác nhau. “Năng
lượng duy trì sự sống” được kết hợp đặc biệt mật
thiết với chức năng của tâm.
Bốn
cực
lạc (Tạng, dga’ ba bzhi). Cực lạc, cực lạc cao nhất,
cực lạc phi thường và cực lạc bẩm sinh, xuất hiện trong
tiến trình thực hành tan tric nâng cao.
Bốn
quán
đảnh. Cái bình, bí mật, trí tuệ-ngộ đạo, và quán
đảnh lời, cho quyền một người tham gia vào thực hành tantric
nâng cao.
Bốn
vô
lượng. Lòng từ ái vô lượng, lòng bi, cảm thông hoan
hỷ vô lượng, và bình đẳng, cung cấp nền tảng cho sự
trau dồi Tâm linh Tỉnh thức.
Bốn
Sự
Thật Cao Quý. Tứ diệu đế, Chân lý của đau khổ, nguồn
gốc của nó, sự chấm dứt nó và con đường đến chấm
dứt đó, cung cấp như toàn bộ cấu trúc của lý thuyết và
thực hành của đạo Phật.
Bốn
Suy
Niệm Làm Chuyển Tâm. Sự thiền định về giá trị và
sự hiếm có của cuộc sống làm người với nhàn rỗi và
thuận lợi, về cái chết và vô thường, bản tánh không thỏa
mãn của vòng sinh tử và luật nhân quả đi đôi với hành
động và các hậu quả của nó.
Năm
gia
đình Phật. Gia đình các vị Phật: Vajrasattva (Kim Cương
Tát Đỏa), Ratnasambhava (Bảo Sanh), Amitabha (A Di Đà), Amoghasiddhi
(Bất Không Thành Tựu), và Vairocana (Tỳ Lô Giá Na), tương
ứng với năm kết tập (ngũ uẩn) tâm sinh lý của ý thức,
nhận biết, cảm nhận, hình thành tâm thức và thân tướng
(sắc, thọ, tưởng, hành và thức) trong khía cạnh thanh tịnh
của chúng.
Sự
đáp
ứng và sám hối (Tạng,bskang bshags). Một nghi thức thực
hành trong đó hành giả cúng dường đến bổn tôn (đáp ứng),
với khẩn cầu được bảo vệ khi hành giả thú nhận các
vi phạm (sự sám hối).
Cúng
dường
Ganachakra. Một nghi lễ cúng dường tantric.
Gandhava.
(Càn
Thát Bà), Các tiên nữ hay các nhạc công của cõi trời.
Garuda.
Kim
Xí Điểu, một loại chim thần thoại, hoàn toàn trưởng
thành khi mới nở và có năng lực phi thường.
Đại
Viên
Mãn (Tạng, rDzogs chen). Giáo lý cao nhất của phái Nyingma
Phật giáo Tây Tạng, bao gồm ba bộ hướng dẫn được biết
như Bộ Tâm, Bộ Mở Rộng và Bộ Hướng dẫn Thiết thực.
Guru
yoga.
Thực hành thiền định trong đó hành giả tự mình hiến
dâng đến vị thầy tâm linh như cùng bản tánh với tất cả
chư Phật.
Lắng
nghe,
suy nghĩ và thiền định. (Văn, Tư, Tu) Ba giai đoạn thông
thường của thực hành đạo Phật, mỗi thứ thành công làm
phát sinh một hiểu biết và trí tuệ ở cấp sâu hơn.
Hinayana.
Tiểu
Thừa, cái “nhỏ hơn” hay “cá nhân”, thừa của
lý thuyết và thực hành Phật giáo, chủ yếu nhắm đến mục
tiêu cuối cùng là giải thoát chính hành giả khỏi vòng sinh
tử.
Kinh
mạch
kati pha lê rỗng. Kinh mạch của trí tuệ bổn nguyên
định vị trong ngực của tất cả chúng sanh.
Sự
không
đồng nhất. Không có tự tánh vốn sẵn, hoặc vật
chất. Điều này có hai loại, không đồng nhất của cá nhân
và không đồng nhất của hiện tượng, ám chỉ việc thiếu
bản chất tự-hiện hữu của con người và của hiện tượng
khác theo thứ tự định sẵn.
Jnayakaya.
Cũng
được biết như Svabhavakaya, theo diễn dịch phổ biến
của Nyingma là ám chỉ đến tính bất khả phân của Nirmanakaya,
Sambhogakaya và Dharmakaya (Hóa Thân, Báo Thân và Pháp Thân).
Kriya.
Theo
sự phân loại của Nyingma, là bộ căn bản nhất của
ba bộ ngoại tantra, hai bộ kia là Upaya và yoga.
Lama
(Phạn,
guru). Vị thầy tâm linh hoặc bất cứ vị tổ tâm
linh nào được tôn kính.
Giai
đoạn
Nhảy-vọt (Tạng, thod rgal ba). Thứ hai của hai giai đoạn
trong thực hành Đại Viên Mãn, nhắm đến việc sinh ra nhanh
chóng sự hiện diện tự phát, đầy đủ của Phật tánh chính
hành giả.
Mara.
Ma
vương hoặc ảnh hưởng ma quỷ tạo chướng ngại cho sự
chín muồi tâm linh. Bản tánh thực tế của “những ma quỷ”
như vậy là chính tâm thức phiền não của con người, như
tham luyến, sân hận và rối loạn, mặc dù chúng cũng có thể
xuất hiện ở bên ngoài.
Mahayana.
Đại
Thừa, cái “to lớn” hay “phổ quát” thừa của lý
thuyết và thực hành Phật giáo, hướng đến việc đạt được
Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của tất cả chúng
sanh.
Mandala.
1)
Một biểu tượng, biểu tượng đại diện của vị bổn
tôn đã chọn với cung điện để trụ và môi trường chung
quanh, được quán tưởng bởi hành giả để thăng hoa cảm
giác của họ về nhận dạng cá nhân và kinh nghiệm của thân,
tâm và chung quanh họ. 2) Một biểu hiện, biểu tượng đại
diện của thế gian cùng với tất cả sự rộng lớn của
một vị vua thế gian, cúng dường đến các đối tượng quy
y của hành giả.
Mantradhara
(Tạng,
sngags ‘chang) nghĩa đen là “người duy trì mantra”,
người đã tinh thông khắp các thực hành tantra của đạo
Phật.
Núi
Meru.
Núi Tu Di, ngọn núi thần thoại cao vượt nhất ở trung
tâm biểu tượng hóa của thế giới chúng ta, được bao quanh
bởi bốn châu lục.
Tự-tâm
(Tạng,
sems nyid). Nghĩa đen, “sự tỉnh thức,” đây là bản
tánh cốt tủy của tâm, đồng nhất với Phật tánh của hành
giả.
Dòng-tâm
thức
(Tạng, rgyud). Tâm thức tương tục của một cá nhân,
hiện lên như việc đang xảy ra, luôn thay đổi bất thường
suốt quá trình của một kiếp sống và từ kiếp này sang
kiếp tới.
Mudra.
Thủ
ấn, nghĩa đen, “ấn”, đó là biểu tượng tư thế
hay chuyển động, thường của hai tay, được thực hành trong
thiền định hay nghi lễ thực hành. 2) một phối ngẫu cùng
với hành giả thực hành trong giai đoạn nâng cao của thiền
định tantric.
Chín
yana.
Chín “thừa – xe” của thực hành tâm linh, theo sự
phân loại của phái Nyingma bao gồm Srvakayana (Thanh Văn Thừa),
Pratyekabuddayana (Độc Giác Phật – Duyên Giác Thừa), Bodhisattvayana
(Bồ Tát Thừa), Kriya, Upaya, Yoga, Mahayoga, Anuyoga và Atiyoga.
Nirmanakaya.
Hóa
Thân, có thể sử dụng hơn của hai Rupakaya (Sắc Thân),
hay “Thân Hóa Hiện” của một vị Phật (vị khác của Sambhogakaya),
biểu hiện trong mọi cách để dẫn dắt chúng sanh đến giải
thoát và tâm linh tỉnh thức.
Phi-khách
quan.
Không xuất hiện như một đối tượng trong phạm vi thói
quen, cụ thể hóa cấu trúc chủ thể/đối tượng của tri
giác và khái niệm nhận biết; không có tự tánh như một
đối tượng.
Paramitayana.
Nghĩa
đen, “Thừa của sự Hoàn Thiện,” ám chỉ Sáu Hoàn
Thiện của bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền
định, và trí tuệ, hình thành cấu trúc của bồ tát đạo
của cuộc sống và con đường đến Tâm linh Tỉnh thức; giống
với Bodhisattvayana.
Parinirvana.
Giải
thoát cao nhất của một vị Phật, được nói là xảy
ra sau khi chết.
Pranayama.
Một
hệ thống kỹ thuật thiền định để kiểm soát hơi
thở như phương tiện điều chỉnh năng lượng sự sống trong
thân, lần lượt ảnh hưởng đến trạng thái tâm thức của
hành giả.
Pratyekabuddha.
Độc
Giác Phật, người đạt được giải thoát khỏi vòng
sinh tử một mình, không dựa trực tiếp vào một vị thầy.
Preta.
Ngạ
quỷ, tinh linh của sáu bộ chúng sanh trong vòng sinh tử,
được đặc tính hóa với sự đói, khát và thèm muốn mãnh
liệt.
Lỗ
mở
preta. Lỗ mở trong vùng bộ phận sinh dục, qua đó ý thức
của một người xuất ra khỏi cơ thể vào lúc chết nếu
người đó sắp nhận tái sanh như một ngạ quỷ.
Rsi.
Một
vị tổ thành tựu cao trong thực hành thiền định.
Rakta.
Dịch
tinh chất đỏ nhận được từ người mẹ, thường
định vị ở dưới rốn, nhưng lại đi lên khi người ta chết
và trong giai đoạn nhập định sâu.
Bodhicitta
trắng
và đỏ. Hai loại dịch tinh chất, hay “giọt,” thường
định vị ở đỉnh đầu và dưới rốn một cách tương ứng,
rồi hội tụ tại ngực trong tiến trình cận tử và trong
nhập định sâu.
Rupakaya.
“Sắc
Thân” của một vị Phật, gồm Báo Thân và Hóa Thân,
đối tác với Pháp Thân.
Samadhi.
Sự
thiền định tập trung đưa đến trình độ khác thường
của sự chú ý ổn định và trong sáng.
Samaya.
Giới
nguyện tantric đã thọ khi tiếp nhận quán đảnh tantric,
hình thành nền tảng cho thực hành của Vajrayana.
Sanbhogakaya.
Báo
Thân, thân vi tế hơn của hai loại Rupakaya, hay “thân
hóa hiện” của một vị Phật, xuất hiện chỉ với hành
giả cao cấp hơn.
Sangha.
Tăng
Đoàn, nói rộng ra là cộng đồng các hành giả của
Giáo Pháp hay đặc biệt hơn là cộng đồng của các tăng,
ni đã thọ cụ túc giới, hoặc cộng đồng của chư bồ tát.
Siddha.
Thành
tựu giả, một người đã thành tựu một hay nhiều
siddhi thông thường hay phi thường.
Siddhi.
Một
khả năng siêu nhiên, trong đó có một số của thế gian,
bao gồm khả năng đi trên nước, bay trong bầu trời v.v...
còn cái khác là xuất thế gian là sự thành tựu của Tâm
linh Tỉnh thức viên mãn.
Sáu
hoàn
thiện. Sự hoàn thiện của bố thí, trì giới, nhẫn
nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, cung cấp cấu trúc
của bồ tát đạo đến sự tỉnh thức.
Tâm
linh
Tỉnh thức. Về mặt chân lý tương đối, là khao khát
đạt được Tâm linh Tỉnh thức viên mãn vì lợi ích của
tất cả chúng sanh; và về mặt chân lý tuyệt đối là sự
nhận biết của bản tánh tối thượng của thực tại.
Sravaka.
Nghĩa
đen “người nghe,” ám chỉ đệ tử gián tiếp hay
trực tiếp của Đức Phật, dấn thân trong thực hành của
đạo Phật để đạt giải thoát cá nhân khỏi vòng sinh tử.
Stupa.
Tháp,
nơi để thánh tích chứa các đồ vật linh thiêng như
những gì còn lại của một bậc giác ngộ cao; một nơi để
thánh tích như vậy cũng được xem là biểu tượng tiêu biểu
cho tâm Đức Phật.
Tantra.
Con
đường bí mật của Phật giáo, đưa đến việc “nhận
kết quả như con đường,” có nghĩa hành giả tưởng tượng
hành động theo cách cư xử của thân, khẩu và ý của một
vị Phật như một phương tiện để đạt được Tâm linh
Tỉnh thức; một luận thư trình bày lý thuyết và thực hành
của Vajrayana (Kim Cương Thừa).
Tathagata.
Như
Lai, một tính ngữ của Đức Phật, nghĩa đen “Đấng
Như Lai,” bậc đã giác ngộ chân lý tối thượng.
Terma.
Kho
tàng của hướng dẫn tâm linh, có hai loại chính: kho tàng
đất; được chôn dấu trong đất, và kho tàng tâm được
chôn dấu trong tâm thức của vị tổ và được phát hiện
vào thời điểm thích hợp và hiển lộ cho nhân loại.
Thangka.
Tranh
cuộn Tây Tạng, hường mô tả một hay nhiều bổn tôn
hoặc mandala.
Ba
hiện
thân. Dharmakaya, Sambhogakaya và Nirmanakaya.
Ba
độc.
Tham luyến, sân hận và rối loạn, là ba phiền não
nền tảng của tâm.
Ba
yana.
Hinayana, Mahayana và Vajrayana.
Nguồn
Giáo
Pháp ba-góc. Sự quán tưởng ánh sáng tứ diện ở dưới
rốn trong các thiền định tantric nào đó.
Torma.
Một
nghi lễ cúng dường, thường làm bằng bột lúa mạch
nướng trong dạnh hình tròn được dâng cúng trong nghi lễ
tantric.
Tulku.
Hóa
thân của một người trong đời trước hoặc các kiếp
trước đã hoàn toàn đạt được sự chín muồi tâm linh cao
độ.
Upaya.
Bộ
giữa của ngoại tantra theo phạm trù hóa của phái Nyingma.
Vajra.
Một
quyền trượng được sử dụng trong nghi lễ tantric, biểu
tượng hóa phương tiện thiện xảo, lòng bi, và cực lạc
bất biến.
Vajrayana.
Thừa
cao nhất của ba yana, hay thừa tâm linh, đã chiếm ưu
thế trong Phật giáo Tây Tạng.
Huynh
đệ
vajra. Nam và nữ cùng nhận quán đảnh tantric, do đó được
gồm chung là “gia đình” tantric.
Đấng
chiến
thắng. Một tên khác của chư Phật, chỉ ra sự chiến
thắng mọi loại phiền não và che ám tâm thức.
Vidyadhara.
Nghĩa
đen “người nắm giữ trí tuệ,” (Trì Minh) ám chỉ
vị tổ tantric đã thành tựu cao.
Vinaya.
Luật
tạng. Kỷ luật đạo đức, đặc biệt cho tăng và ni
Phật giáo.
Yaksa.
Một
bộ bán thiên, hoặc ma quỷ thường ở những nơi đi
qua núi và thỉnh thoảng gây hại cho người sống trong vùng
của họ nếu họ không được khuyên giải.
Yana.
Thừa
tâm linh trong Phật giáo, mang hành giả đến bờ bên
kia của giải thoát và Tâm linh Tỉnh thức.