Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Muốn Ít Và Biết Đủ

Tuesday, August 31, 202108:34(View: 4032)
Muốn Ít Và Biết Đủ
MUỐN ÍT VÀ BIẾT ĐỦ

Thích Trung Định


Buông Xả Hơn Thua Nhưng Không Im Lặng

Muốn ít và biết đủ tiếng Hán gọi là “Thiểu dục-Tri túc”. Đây là hai khái niệm Phật học được đề cập nhiều trong Kinh tạng, Luật tạng cũng như trong Tạng vi diệu pháp. Bất cứ ai nếu muốn có an lạchạnh phúc thì phải sống với tâm muốn ít và biết đủ. Muốn ít nghĩa là lòng tham dục được chế ngự, được điều tiết và khéo điều phục. Biết đủ nghĩa là bằng lòng với những gì mình hiện có. Từ bỏ lấy của không cho, không vì lòng tham mà não hại người khác. Biết đủ dù gặp hoàn cảnh nào cũng an phận tùy duyên và muốn ít thì không khổ não bản thân và không gây phương hại người khác. Cổ nhân thường nói: “Tri túc tâm thường lạc, vô cầu phẩm tự cao.

Trong Kinh Lời Dạy Cuối Cùng Của Đức Phật có nói chi tiết về hạnh muốn ít và biết đủ: “Này các đệ tử, nếu các vị muốn giải thoát mọi đau khổ thì nên thường xuyên tu tập quán biết đủ. Pháp biết đủ là cơ sở của sự an lạchạnh phúc và sung mãn. Người biết đủ dẫu nằm trên đất vẫn thấy an lạc. Người không biết đủ dẫu sống ở thiên đường vẫn chưa thấy toại nguyện [1]. Không biết đủ tuy giàu mà rất nghèo. Biết đủ thì tuy nghèo nhưng rất giàu có. Người không biết đủ là kẻ nô lệ của năm thứ dục lạc thấp kém và còn là tấm bia đời đáng thương xót đối với hành giả biết đủ. Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thản, không lo sợ, gặp cảnh ngộ nào cũng thấy thư thái, không bao giờ có cảm giác thiếu thốn, có ít ham muốn là có Niết bàn”.

Con người khổ là vì không biết đủ và không có muốn ít. Tham đắm càng nhiều thì khổ não càng nhiều hơn. Sự tham muốn quá độ, làm cho lòng người xao xuyến, mất hết cả tự chủ và chỉ còn là nô lệ cho những thèm muốn của mình. Một khi đã bị lòng tham dục điều khiển thì con người gây không biết bao nhiêu tội lỗi, dám làm những chuyện hung ác mà chẳng gớm tay. Lại chính vì lòng tham muốn không ngằn mé mà mình không tự nhận biết, nên đến khi muốn mà không được thì đổ lỗi cho người, nhân đó sinh ra cạnh tranh, xung đột, làm cho nhân loại chịu lắm điều tàn hại. Lòng tham muốn quá độ, làm cho con người tối mắt trước những sự phải, trái thúc đẩy người đời vào đường tội lỗi. Chẳng hạn một kẻ không có năng lực, đạo đức mà muốn được giàu có lớn và quyền thế to, thì có thể dùng những mưu mô gian xảo, đen tối, dã man để đạt ý muốn của mình.

Ngạn ngữ Việt Nam có câu: “Bể kia dễ lấp, túi tham khó đầy”, để chỉ rằng lòng tham con người là vô hạn. Chính vì lòng tham đó mà chúng ta không tìm được hạnh phúc ngay trong cuộc sống này cũng như sản sinh ra nhiều hệ lụy của xã hội bằng những tệ nạn đầy nguy hiểm. Ví như được ăn ngon mà còn cầu thêm món lạ, độc đáo, quý hiếm,… Chính vì cứ mãi theo lòng tham mà gây nên sự phiền não. Tiền tài chính là con dao hai lưỡi. Nếu được sử dụng một cách đúng đắn, nó chẳng những mang lại một cuộc sống hạnh phúc cho bản thân mà còn có thể tạo phúc cho người khác. Thế nhưng, một khi con người tham lam những tiền tài không thuộc về mình, không phải mình làm ra thì rất có thể sẽ phải rơi vào tai họa.

Có một câu chuyện kể rằng, một hôm Đức Phật cùng với A Nan đi trên cánh đồng ruộng ở Xá Vệ Quốc. Đức Phật bỗng dừng bước và nói: “A Nan, con hãy nhìn ụ đất nhỏ trên thửa ruộng phía trước, ở đó đang ẩn nấp một con rắn độc đáng sợ!” A Nan cũng dừng bước nhìn về hướng Đức Phật chỉ, sau khi quan sát liền nói: “Quả nhiên là có một con rắn độc lớn đáng sợ!”. Lúc ấy có một người nông dân đang cuốc ruộng ở gần đó nghe được cuộc đối thoại giữa Đức PhậtA Nan, nghe nói trong ruộng có rắn độc bèn đến xem thử. Nhưng anh ta không thấy rắn mà lại phát hiện ra một hũ vàng ở trong ụ đất nhỏ đó. Người nông dân lẩm bẩm một mình: “Rõ ràng là một hũ vàng, nhưng sao những Hòa thượng này cứ khăng khăng bảo là rắn độc, thật không hiểu nổi họ đang nghĩ gì. Ai mà may mắn được như mình chứ, đi cuốc ruộng mà cuốc được cả một hũ vàng thế này, phải mau mang về nhà thôi, nửa đời còn lại không cần lo cơm áo gạo tiền nữa rồi”.

Anh ta nhanh chóng đào hũ vàng, rồi vội vàng mang về nhà. Người nông dân vốn nghèo khổ, một ngày cơm ba bữa còn khó khăn nay đột nhiên phát tài, anh ta vui mừng khôn xiết, bắt đầu lao vào mua sắm quần áo, đồ đạc trong nhà, ăn những món sơn hào hải vị một cách vô độ. Người cùng làng với anh ta đều vô cùng thắc mắc nên những lời đồn bay đi khắp nơi, một đồn mười, mười đồn trăm, chẳng lâu sau đã truyền đến tai quan phủ. Quan phủ cho người gọi anh ta đến và hỏi: “Nghe nói ngươi trước kia rất nghèo, nhưng sau một đêm đã trở thành phú ông. Số tiền ấy đến từ đâu, có phải nhà ngươi ăn trộm hay không? Mau khai thật đi”.

Người nông dân không biết phải trả lời sao, nên bị nhốt trong phủ quan, cả ngày bị hỏi cung, khiến anh ta vô cùng hoang mang, nhưng lại không thể chứng minh mình không phải kẻ trộm. Người nhà muốn bỏ tiền ra chạy chọt mua quan, chỉ mong giữ được mạng cho anh ta, nhưng tiền đều đã tiêu sạch nên chẳng thể cứu được anh ta ra. Người nông dân cuối cùng đã bị xử tội tử hình. Ngày hành án, anh ta nhìn lên đoạn đầu đài mà lòng vô cùng hoảng sợ, miệng không ngừng lẩm bẩm: “Đức Phật ơi, đó thực sự là rắn độc! A Nan ơi thực sự đó là một con rắn độc lớn!” Quan phủ nghe thấy những lời nói lạ lùng ấy bèn cho rằng trong chuyện này hẳn phải có duyên cớ gì đó, nên liền bẩm báo chuyện này lên nhà vua.

Nhà vua cho triệu người nông dân đó đến và hỏi: “Nhà ngươi phạm tội ăn cắp, lúc thụ án không ngừng lẩm bẩm “Đức Phật ơi, đó thực sự là rắn độc! A Nan ơi thực sự đó là một con rắn độc lớn!” Rốt cuộc ngươi có ý gì?”. Người nông dân sợ hãi thưa với nhà vua: “Dạ thưa Đại vương, hôm đó thảo dân đang làm việc ngoài đồng, thì Đức PhậtA Nan có đi ngang qua đó. Họ nhìn thấy bên dưới một ụ đất có chôn vàng, nhưng đều nói đó là một con rắn độc, là một con rắn độc lớn, thảo dân không tin nên đã đào chỗ vàng lên rồi đem về nhà. Thảo dân rơi vào bước đường ngày hôm nay mới ngộ ra được đó thực sự là một con rắn độc lớn. Vàng có thể làm cho thảo dân trở nên giàu có, cũng có thể khiến thảo dân mất mạng, nó thực sự còn đáng sợ hơn cả rắn độc”.

Rồi anh ta lại tiếp tục bẩm với nhà vua: “Đức Phật nói đó là một con rắn độc, A Nan nói đó là một con rắn độc lớn. Thậm chí còn đáng sợ hơn cả rắn độc, đến hôm nay thảo dân mới hiểu ra. Thảo dân ngu muội, thấy vàng thì coi như bảo vật nên mới u mê chìm đắm vào bể khổ. Chỉ khi từ bỏ được ý định đen tối trong đầu thì mới không bị vàng mê hoặc”.

Nhà vua sau khi nghe được những lời thành thật từ đáy lòng của người nông dân cũng đã nảy sinh sự tin tưởng rất lớn đối với giáo nghĩa của Đức Phật. Nhà vua không những tán thưởng lời dạy của Đức Phật mà còn tán thưởng sự giác ngộ của người nông dân, do vậy đã tuyên bố vô tội và thả anh ta về nhà [2].

Thiểu dục tri túc, có thể mang đến cho con người an lạc. Nếu lòng tham muốn quá sâu nặng sẽ khiến cho các căn không yên, tâm luôn tham cầu không biết chán, và sẽ tăng trưởng vô số khổ não. Người đa dục thường sanh nhiều niệm dục, tham cầu lợi ích không có chỗ dừng như miệng của cá Ma Kiệt [3]. Người ít dục vọng sẽ không tham cầu nên không có khổ não, tâm thường thảnh thơi” [4].

Lòng tham muốn làm cho ta khổ bao nhiêu, thì Thiểu dụcTri túc lại làm cho ta an lạc bấy nhiêu. Đó là lẽ đương nhiên. Nhờ “ít tham dục”, nên con ma dục vọng không làm sao xui khiến được mình; nhờ “biết đủ”, nên con quỷ tham lam chẳng có quyền hành sai sử mình nữa. Một khi con người không còn làm nô lệ cho vật chất nữa, thì lòng người bắt đầu tự do, giải thoát. Chỉ khi ấy con người mới có thể tự cho là mình có hạnh phúc được; và dù cho thường ngày vẫn cơm canh đạm bạc, cũng vẫn thấy trong lòng thơ thới, an vui, sung sướng. Hơn nữa, nhờ Thiểu dụcTri túcgia đình, xã hội được an vui, hòa bình, không còn ai giành giật của cải, danh vọng, miếng ngon, vật lạ của ai nữa. Lợi ích của Thiểu dụcTri túc thật không sao kể xiết được.

Người ngoài đời và trong đạo, muốn được hạnh phúc chân thật, thì nên tu hạnh “Thiểu dục” và “Tri túc”, ít so sánh, được nhiều an lạc. Muốn tránh khỏi tai nạn trong gia đìnhxã hội, mỗi người trên thế gian này đều phải giữ phận thủ thường, đừng vượt quá khả năng của mình. Trên thế giới năm châu hiện nay, muốn có hòa bình để mà hưởng lạc thú hoà bình vĩnh viễn, thì cũng không ngoài cái hạnh “Thiểu dục” và “Tri túc” mà được [5].

Trong kinh Thuỷ Sám có câu tương tự như kinh Di Giáo: “Người biết đủ tuy nằm dưới đất vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ dù ở thiên đường cũng không vừa ý”. Đó là lý do vì sao có người giàu nhưng vẫn không tìm được hạnh phúc, có người nghèo lại có được hạnh phúc tràn đầy. Một trăm ngàn đồng đối với người nghèo đã là đủ cho một ngày, nhưng với người giàu một triệu đồng vẫn chưa là đủ. Điều này chúng ta thấy rằng, thiếu thốn hay đầy đủ không chỉ phụ thuộc vào vật chất, mà nó phụ thuộc vào tư tưởng hay cách suy nghĩ của chúng ta.

Đây là lý do vì sao Đức Phật dạy hạnh Thiểu dục tri túc cho hàng đệ tử. Thiểu dục tri túc không kìm hãm sự phát triển của bất kỳ ai, cách sống này là để đối trị với lòng tham không đáy, lòng tham gây ra phiền não không có điểm dừng mà chúng ta – những con người hiện đại đang bị vướng phải. Thiểu dục tri túc là một sắc thái tâm lý sống, là lối sống cao đẹp mà con người nên hướng đến.

 

Chú thích:

* ĐĐ.TS Thích Trung Định – Ủy viên Ban Văn hóa Trung ương GHPGVN. Phó Chánh Thư ký Phân ban Hoằng pháp Hải ngoại – Ban Hoằng Pháp Trung ương GHPGVN.

[1] Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng do vi an lạc; Bất tri túc giả tuy xử Thiên đường diệc bất xứng ý.

[2] Minh Tâm, Vì sao đức Phật nói vàng là rắn độc, http://songdep.tv/vi-sao-duc-phat-noi-vang-la-ran-doc.html.

[3] (Cá Ma Kiệt là một loại cá lớn, nó có thể nuốt rất nhiều thuyền bè trên biển).

[4] Thích Hậu Quán – Việt Dịch: Thích Vạn Lợi, Thích Hữu Chơn, Thích Giới Tường, Thích Minh Tạng, Thích Hạnh Tín, Lâm Nghiệp Hồng, Phước Huệ Tập 3, Ít Muốn Và Biết Đủ, Nxb Phật Đà Giáo Dục, Đài Loan, 2015,tr.24.

[5] Thích Thiện Hoa, Phật Học Phổ Thông, Khóa 2, Thiên thừa Phật giáo, http://huongdanphattu.vn/news/Phat-phap-vi-dieu/Thieu-duc-va-tri-tuc-3530/.

Send comment
Off
Telex
VNI
Your Name
Your email address
(View: 12)
Thu thúc lục căn là làm chủ sáu giác quan khi tiếp xúc với sáu đối tượng trần cảnh.
(View: 29)
Bốn câu thi kệ này được trích trong bài « Kinh Hạnh Phúc » mà đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói cách đây đã hơn hai ngàn năm trăm năm,
(View: 119)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(View: 157)
Chúng ta ở đây; chúng ta tồn tại và chúng ta có quyền hiện hữu. Ngay cả những sinh vật không có tri giác như hoa cũng có quyền tồn tại.
(View: 153)
Đức Phật xuất hiện và hành đạo nơi xứ Ấn cách nay hơn 26 thế kỷ với hiện thân con người, bậc Giác ngộ trong thế gian.
(View: 179)
Phá kiến là một thuật ngữ trong Phật giáo dùng để chỉ cho việc có quan điểm, giải thích, hướng dẫn sai lạc ý nghĩa chân chính của Phật pháp.
(View: 194)
“Dòng sông ơi! Vẫn thơ mộng như ngày xưa! Tình người ơi! Vẫn đẹp cho đến bao giờ…?”
(View: 214)
Nói sơ tâm, là nói về tâm của người mới học, tâm đơn sơ, tâm như hài nhi trẻ nhỏ, tâm rất mực hồn nhiên, chưa có chút gì là chữ nghĩa dày đặc, không chút gì là kiến thức uyên bác.
(View: 216)
Cái đẹp luôn là đề tài thơ mộng cho con người ta bay bổng, mộng mơ và tương tư không dứt, nó là một phần ý vị của cuộc sống.
(View: 255)
Người tu học Phật đều biết rằng, Bát Chánh đạolà nền tảng quan trọng của toàn bộ giáo pháp Thế Tôn.
(View: 282)
Chúng ta không thể nào trường sanh bất tử, trẻ đẹp, và mạnh khỏe mãi mãi được trên đời.
(View: 417)
Tu hành là gì? Có phải nhất định cần thoát ly cuộc sống, chạy vào trong chùa niệm kinh lạy Phật...
(View: 663)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(View: 324)
Để đoạn tận tất cả tà kiến thì phải trau dồi chánh kiến. Chánh kiến ở đây là cái gì?
(View: 390)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(View: 289)
Đúng thế, đời là vô thường, huyễn mộng ai ai cũng biết. Nhưng chúng ta không thể nào ngồi im mà thụ động tại chỗ.
(View: 292)
Đức Phật đã dạy các nhà sư nên đi lang thang thế nào? Các bản tiếng Anh thường dùng chữ “wander” để nói về hành vi lang thang.
(View: 319)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(View: 343)
Pháp thoại này Thế Tôn dạy Tôn giả La-vân (La-hầu-la) quán chiếu về thân nghiệp giống như đang soi gương thấy rõ mặt mình dơ hay sạch.
(View: 326)
Cứ mỗi độ Vu Lan lại về với chúng ta, chính lúc đó là mùa Báo Hiếu, không biết bao nhiêu người con, từ khắp bốn phương nhớ tưởng đến công lao sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ…!
(View: 335)
Thỉnh thoảng chúng ta nghe rằng bạn này tu theo Thiền Chỉ, và rồi nghe rằng bạn kia tu theo Thiền Quán.
(View: 345)
Bài pháp thoại này được nói tại một ngày tu Chánh niệmTu viện Tisarana, vào tháng Ba năm 2008.
(View: 345)
Bài viết này được chuyển thể từ một bài báo xuất bản đầu tiên trên Tina Lear's Medium.
(View: 334)
Hình như bất cứ lãnh vực nào, bước vào chuyên sâu, đều luôn có những chướng ngại, hoặc chướng duyên;nhất là hành giả trên con đường tâm linh giải thoát.
(View: 328)
Về câu hỏi, thế nào là thời mạt Pháp? Tôi được nghe câu trả lời của Đức Đạt Lai Lạt Ma trong buổi nói chuyện tại chùa Viên Giác
(View: 332)
Phàm phu thì sống trong thức phân biệt, nên thấy có sanh tử và không ra khỏi. Trái lại, bậc thánh thì sống trong trí và do đó thoát khỏi sanh tử:
(View: 384)
Phàm là người xuất gia ở chốn Tòng Lâm, tự viện, phải sống đời phạm hạnh, nghiêm trì giới luật đã thọ, giữ gìn oai nghi tế hạnhtrang nghiêm tự thân, kính trên nhường dưới, từ ái với mọi người.
(View: 354)
Bất cứ trong một tổ chức nào, từ chính trị đến xã hội, từ Tôn giáo đến đoàn thể…đều cần có một lý thuyết nền tảng vững chắc để làm cơ sở triển khai mọi sinh hoạt.
(View: 556)
Mỗi ngày trong cơ thể ta đều có những tế bào cũ chết đi và những tế bào mới sinh ra nhưng có bao giờ chúng làm đám tang hay tổ chức sinh nhật cho chúng đâu
(View: 419)
Chúng ta thường nghe nói rằng Thiền Tổ Sư là dạy pháp vô niệm, vô tâm.
(View: 415)
Như lý tác ý là khởi nghĩ, hướng tâm về mọi sự vật và hiện tượng đúng như lời dạy của Đức Phật.
(View: 413)
Một thời Đức Phật trú tại nước Xá-vệ, ở trong Thắng Lâm, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Thế Tônnói với các Tỳ-kheo:
(View: 435)
Thân là thân thể của con người. Niệm là ghi nhận, quan sát. Xứ là lĩnh vực, là đề mục để hành giả quan sát tu tập.
(View: 424)
“Chiếc áo không làm nên nhà sư”, nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh giá người khác qua hình thức bên ngoài.
(View: 476)
Có phải bây giờ đã tới thời mạt pháp? Hay là sắp tới thời mạt pháp?
(View: 490)
Tánh Không được đồng hóa với như mộng. Đây là điều hệ thống Kinh Đại Bát Nhã thường nói.
(View: 564)
Toàn thể thế giới chúng ta, bên ngoài là thế gian, bên trong là tâm. Tất cả chúng là một biển vô tận của các pháp hữu vi đang vận hành.
(View: 469)
Việc tu tậpthiền viện nhấn mạnh vào việc hoàn thành mọi công tác tốt đẹp. Là tu sĩ, chúng tôi đặt nặng giá trị của việc chánh niệm về những điều bình thường
(View: 488)
Danh vọng nương nơi cái tôi mà tồn tại. Không có cái tôi, danh vọng không hiện hữu.
(View: 590)
Đã tử lâu lắm rồi, người Phật tử đã nghe nói về thời mạt pháp.
(View: 527)
Gần đây chúng ta thấy xuất hiện trên mạng xã hội nhiều bài viết kêu gọi người Phật tử phải cảnh giác với việc “trộm tăng tướng” hay “tặc trụ”.
(View: 529)
Trong nhiều bài pháp tôi đã viết, thì thường đề cập đến vấn đề làm phước, tích phước, tích đức, hay tu thiện... V
(View: 557)
Bố thícúng dường là một trong những hạnh đầu tiên để làm cho cõi này tốt đẹp hơn, và là những bước đi đầu tiên của Phật tử trên đường giải thoát.
(View: 519)
Thuyết âm mưu không phải là vấn đề mới, nó vốn xảy ra từ xa xưa, bên Đông hay bên Tây đều có cả.
(View: 579)
Sự xuất hiện của hành giả Thích Minh Tuệ đã tạo ra một biến động chưa từng có trong lịch sử Phật Giáo Việt Nam.
(View: 607)
Bệnh đau là chuyện tất yếu của con người. Trừ những người có phước đức về sức khỏe sâu dày, còn lại hầu hết đều trải qua bệnh tật.
(View: 622)
Thời thơ ấu, chúng ta ưa thích đọc truyện Cô Ba Cháo Gà Địa Ngục Du Ký, rồi ưa nghe kể chuyện vong nhập, chuyện trừ tà…
(View: 1475)
Con đi Tu là để cầu giải thoát, hàng ngày con chỉ xin ăn một bữa, con không nhận tiền của ai.
(View: 626)
Karma là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “hành động”. Một cách đơn giản để hiểu nghiệp là nhìn nó như những khoảnh khắc nhân quả.
(View: 728)
Từ nghệ thuật, có những nhân vật bước ra đời sống. Từ đời sống, cũng có vài con người đi vào nghệ thuật. Nhưng trở thành hình tượng trung tâm
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant