Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Chiếc Bè Qua Sông

02 Tháng Mười Hai 202120:04(Xem: 5566)
Chiếc Bè Qua Sông
CHIẾC BÈ QUA SÔNG 

Thích Tịnh Nghiêm

Bao Giờ Ta Biết...

Học pháp là công việc quan trọng của người con Phật nếu muốn đạt được mục đích tối hậu của sự giải thoát. Chúng ta có thể chọn lựa việc học pháp thông qua nhiều hình thức khác nhau như: Gia giáo – thầy truyền cho trò, tham gia các cơ sở giáo dục đào tạo, hoặc qua thực tiễn đời sống… Tất cả đều phụ thuộc vào sự cân nhắc, tính toán của mỗi người. Tuy nhiên, quan trọng nhất của việc học pháp là phải có thái độ chân chính, biết ứng dụng pháp học ấy có hiệu quả vào đời sống tu tập để đạt được an lạc, giải thoát ngay trong hiện tại

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: “Ngã thuyết pháp như phiệt dụ giả, pháp thượng ưng xả hà huống phi pháp” [1].

Tạm dịch: “Pháp ta nói ra dụ như chiếc bè, pháp còn nên xả huống gì là phi pháp”.

Nghĩa là, những pháp do Phật nói ra cần được hiểu như một phương tiện, giống như chiếc bè có thể đưa người qua sông. Chúng ta có thể nương vào pháp mà nắm lấy những lợi ích của nó để vượt qua những con sóng phiền não, vượt qua khổ đau và đến được bờ giải thoát.

Từ pháp có nhiều nghĩa, nhưng trong lời dạy trên, pháp có thể hiểu là giáo lý, những gì Phật đã dạy. Ngược lại, phi pháp là những gì không phải do Phật nói hay trái với giáo lý Phật đã nói, đưa đến dục vọng, si mê, sân hận, tà kiến. Đối với người học Phật, chúng ta cần phải hiểu rõ ba khía cạnh liên quan đến pháp học mà Đức Phật đã truyền dạy.

CHỨC NĂNG CỦA PHÁP

Pháp là phương tiện, ta nương vào đó tu tập để đạt đến sự giải thoát. Pháp không phải là cứu cánh; pháp giống như chiếc bè đưa ta qua sông, khi qua được sông ta không nên dính vào đó mà trở thành chấp pháp, chấp văn tự. Không nên khư khư giữ pháp như đội chiếc bè trên đầu hay vác nó trên vai, mà phải biết đặt nó xuống đất hoặc thả trôi sông, rồi đi đến nơi ta cần đến. Vì pháp hay các khái niệm, các suy tưởng thuộc kiến, văn, giác, tri đều là vọng thức, nếu bám chấp vào đó thì ta không thể giải thoát.

Đức Phậtpháp như chiếc bè nhằm nhấn mạnh đến mục đích của sự tu tậpgiải thoát, giác tỉnh đi vào trí tuệ chứ không phải là cung cấp kiến thức về con đường giải thoát để luận bàn. Lại nữa, pháp cũng giống như “ngón tay chỉ trăng”, theo hướng ngón tay để thấy ánh trăng, chứ không phải nhìn vào ngón tay mà có được ánh sáng của mặt trăng đó.

Trong quá trình tu tập, tùy theo từng giai đoạn, từng vấn đề đang vướng mắc, ta có thể nương vào pháp để vượt qua mà không bám lấy pháp như là một sở đắc. Khi đã vượt qua những vướng mắc đó, ta có thể buông bỏ, chuyển sang thực hành pháp khác một cách phù hợp.

CÁCH THỨC SỬ DỤNG PHÁP

Trong Kinh Xà Dụ (Trung Bộ Kinh số 22), Đức Phật có nói đến người biết cách sử dụng pháp, giống như người biết cách bắt rắn; phải biết quán sát bằng trí tuệ [2].

Mỗi pháp tu có một tác dụng riêng, cần phải được sử dụngbuông bỏ đúng lúc. Sử dụng pháp không đúng cách, không đúng lúc, giống như cầm đuôi rắn. Con rắn ấy có thể quay lại cắn người đó nơi tay, nơi cánh tay hay ở một phần nào khác của cơ thể và người đó có thể do nhân việc ấy mà chết hay đau khổ gần như chết. Sử dụng pháp không đúng cách, chấp thủ các pháp cũng làm ta khổ đau; pháp nếu biết sử dụng đúng cách, như bắt rắn mà nắm đầu rắn, ta có thể dùng nó giải quyết những khổ đau của bản thân mà không bị tác dụng phụ.

MỤC ĐÍCH CỦA HỌC PHÁP

Ta học pháp là để ra khỏi khổ đau, để đoạn trừ tham ái, chấp thủ, vô minh, chứ không phải nắm giữ để tranh luận, chỉ trích, hí luận hay để dùng vào các mục tiêu lợi dưỡng, cũng không phải để phô diễn hay làm đẹp tự thân. Những điều này đã được Đức Phật bác bỏ trong Kinh Ba-lê (Kinh Trường Bộ, số 24) khi Sunakkhatta cho rằng Đức Phật nói pháp nhằm chứng được các pháp thượng nhân, thần thông, hay giải thích về khởi nguyên của thế giới… Đức Phật khẳng định: “Mục đích mà Ta thuyết giảng Chánh pháp là đưa người thực hành đến chỗ tận diệt khổ đau” [3].

Do vậy, pháp là hướng đến tu tập giải thoát, đạt được tỉnh giác, đi vào trí tuệ, chứ không phải cung cấp kiến thức về con đường giải thoát. Cũng thế, trong Kinh Tiễn Dụ (Trung A-Hàm số 221), Đức Phật đã khẳng định Ngài không quan tâm và không trả lời các vấn đề thuộc hí luận, không liên hệ đến mục đích của đời sống phạm hạnh [4].

Vì suy cho cùng, dù quan điểm có như thế nào, vấn đề sanh, lão, bệnh, tử vẫn chưa được giải quyết. Do đó, Đức Như Lai xác định: “Chư Tỳ-kheo, xưa cũng như nay, Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ” [5]. Trong Kinh Kim Cang, mục đích học pháp cũng được nhắc đến, chính là buông bỏ chấp thủ, kể cả pháp mà chúng ta từng học. Cho nên, trong kinh nói rằng: “Tu-bồ-đề! Ông chớ cho Như Lai có nghĩ rằng: Ta có nói pháp. Ông chớ nghĩ như vậy. Bởi vì sao? Vì nếu người nào nói rằng: Như Lai có nói pháp, tức là chê ta, không hiểu được lời nói của Ta nói. Tu-bồ-đề! Nói pháp là không có pháp gì nói được, ấy gọi là nói pháp” [6].

Điều đó, không có nghĩa Đức Phật không nói gì. Qua đây, ta thấy Đức Phật nói pháp nhằm giúp ta tỉnh giác rời khỏi các ngôn ngữ khái niệm của lời dạy (giáo lý) để đi vào đoạn trừ ái, thủ. Vấn đề chính yếu, do đó là giải thoát, là chứng ngộ thực tại.

IM LẶNG LÀ PHÁP HỌC CẦN THIẾT

Trong mối quan hệ giao tiếp, đôi lúc ta cần im lặng để lắng nghe, để hiểu được người nói, tuỳ cơ ứng đáp cho thích hợp. Hoặc biết rằng, ta có nói ra nhưng không đem lại ích gì cho cả đôi bên thì sự cần im lặng cũng rất có giá trị. Nên tránh việc “thể hiện”, “phô diễn” kiến thức. Đức Phật ngày xưa chỉ nói cái người nghe cần, để giác ngộ, giải thoát, chứ không hí luận. Thế nên, khi có ai hỏi, Ngài đều tùy căn cơ mà khai thị. Đôi lúc có người hỏi nhưng Ngài chỉ giữ im lặng, vì biết rằng nói ra chỉ tạo hiểu lầm vô ích. Đó là bài học cho chúng ta noi theo.

Người mới học pháp với nhiều sở tri, sở kiến còn nặng sách vở, thiết nghĩ ta nên dành nhiều thời gian dụng công để suy tư, trải nghiệm về những gì đã học. Chúng ta hãy nỗ lực thực hành để có thể mang lại lợi ích cho tự thân hơn là làm vật trang trí, bám chấp vào đó nhằm chứng tỏ rằng ta là người có hiểu biết. Thực hành pháp đúng cách, đúng lúc, nói năng đúng thời chính là những gì mà Đức Phật đã nhiều lần căn dặn!

 

Chú thích:

* Tỳ kheo Thích Tịnh NghiêmCử nhân Triết học Phật giáo, chùa Huệ Nghiêm (TP. Hồ Chí Minh).

[1] Thích Huệ Hưng (dịch), Kinh Kim Cang Giảng Lục, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2020, tr.66.

[2] Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trung Bộ 1, 22. Kinh Ví Dụ Con Rắn, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, tr.177.

[3] Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trường Bộ 2, 24. Kinh Ba Lê, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, TP. Hồ Chí Minh, 1991, tr.272.

[4] HT. Thích Tuệ Sỹ (dịch), Kinh Trung A-Hàm Tập 2, 221. Kinh Tiễn Dụ, NXB. Tôn Giáo, Hà Nội, 2008, tr.638.

[5] Thích Minh Châu (dịch), Kinh Trung Bộ 1, 22. Kinh Ví Dụ Con Rắn, NXB.Tôn Giáo, Hà Nội, 2012, tr.185.

[6] Thích Huệ Hưng (dịch), Kinh Kim Cang Giảng Lục, NXB. Hồng Đức, Hà Nội, 2020, tr.174.

Trích từ: Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo Số 378 ngày 15-11-2021
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 380)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 378)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 450)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 506)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 662)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 650)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 666)
Phật tánh là chủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 786)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 896)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 722)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 799)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 698)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 1244)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 729)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 768)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1251)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1318)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1112)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 1445)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1362)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 928)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 1597)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1336)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 931)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1395)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 948)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1454)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1433)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 878)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 892)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
(Xem: 1921)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế một cách thực tế hơn
(Xem: 1690)
Sau thực phẩm, ngôn ngữ là nguồn nước của dòng chảy văn hóa trong đó văn là vẻ đẹp (văn vẻ), hóa là sự thay đổi.
(Xem: 1391)
Trong cuộc sống chúng ta thường lẫn lộn giữa thực tếước mơ, thế nhưng ước mơ cũng có thể giúp chúng ta nhìn vào thực tế
(Xem: 1969)
Đức Phật đã từng xác định pháp tu Tứ Niệm Xứ là “Con đường độc nhất đưa đến: Thanh tịnh chúng sanh; Vượt khỏi sầu não;
(Xem: 1926)
Khi nào bạn thấy tâm và cảnh vốn là không, bạn sẽ thấy bất kỳ nơi nào cũng là Niết Bản.
(Xem: 1854)
“Tâm linh” vốn là cụm từ mà đối với nhiều người vẫn xem đó là những gì thuộc về thế giới siêu linh, huyền bí, thuộc về cõi âm.
(Xem: 1959)
Phát xuất từ lời Phật dạy trên đây mà ngài Châu Hoằng nhắc nhở các Sa di không được nghe lén Tỷ kheo tụng giới.
(Xem: 1637)
Ngay cả khi con trẻ không hiểu ý nghĩa, việc quy y vẫn có thể giúp chúng phát triển nghiệp duyên với Pháp.
(Xem: 1110)
Trong thực tế đời sống, có những vấn đề lặp lại thường gắn với sự đơn diệu tẻ nhạt,
(Xem: 2102)
Duy thức tam thập tụng là một bộ trước tác rất trọng yếu trong pháp tướng duy thức, còn là cương lĩnhyếu chỉ của duy thức học.
(Xem: 2126)
Phi-bạo-lực là một giải pháp thực tế trước các sự xung đột trong thời đại của chúng ta.
(Xem: 1654)
Phật tử chúng ta thường đặt hoa trên bàn thờ. Chúng ta biết hoa rất đẹp, nhưng đó không phải là mục đích chúng ta đặt chúng ở đấy.
(Xem: 2093)
Bài này sẽ viết trong tinh thần đối chiếu Kinh Pháp Cú với Thiền Tông.
(Xem: 1332)
Bên ngoài trời đã lạnh. Ra ngoài phải khoác thêm áo ấm; trong nhà phải vặn lò sưởi.
(Xem: 1392)
Trái tim không phải để suy nghĩ. Trái tim là để yêu thương.
(Xem: 1323)
Từ nguyên thủy, tất cả chúng sinh đều muốn được hạnh phúc, và không muốn đau khổ.
(Xem: 2311)
Trong khi một số vị pháp sư cố gắng hết sức để quảng bá giáo lý của họ - bằng cách...
(Xem: 2359)
Đợi cha mẹ già qua đời rồi mới báo hiếu làm đàn tràng cầu siêu thiệt to, mua đất nghĩa trang thiệt rộng, xây mồ xây mả thiệt đẹ
(Xem: 2475)
Phật giáo đề cao giá trị của hạnh buông xả – một trong những đức hạnh căn bản giúp con người thoát khỏi khổ đau, đạt được sự an lạctự do nội tâm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant