Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Quán Chiếu Bát Nhã

17 Tháng Mười 202318:55(Xem: 4141)
Quán Chiếu Bát Nhã

Quán Chiếu Bát Nhã

Nguyễn Thế Đăng

Bồ Tát Đạo

 

Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhãtánh Không thường được xếp thành ba phạm trùVăn tự Bát nhãQuán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhãVăn tự Bát nhã là các kinh luận, giảng về tánh KhôngQuán chiếu Bát nhã là sự thực hành quán chiếu để thấy biết tánh Không. Và Thật tướng Bát nhã là Thật tướng của tánh Không, cũng tức là Thật tướng của tất cả mọi sự.

Trong bài này chỉ nói đến quán chiếu Bát nhã, và chỉ nói đến hai đề mục quán chiếu, trong rất nhiều đề mục quán chiếu của hệ thống Bát nhã, vì chỉ riêng quán chiếu cái Không thì đã có mười tám cái Không. Hai đề mục ấy cái thứ nhất nghiêng về Không tông của ngài Long Thọ và cái thứ hai nghiêng về Duy thức tông của ngài Thế Thân.

Những câu kinh được trích dẫn là từ Ma ha Bát nhã Ba la mật đa bản dịch của Tam tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập

 

1/ Quán chiếu vô tự tánh

Lại Này, ngài Xá Lợi Phất! Vì các pháp do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh

Những gì do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh? 

Sắc hòa hiệp sanh nên không có tự tánh. Thọ, tưởng, hành, thức hòa hiệp sanh nên không có tự tánh. Nhãn cho đến ý xúc làm nhân duyên sanh thọ là hòa hiệp sanh nên không có tự tánh

Bố thí ba la mật cho đến Bát nhã ba la mật hòa hiệp sanh nên không có tự tánhBốn niệm xứ cho đến mười tám pháp Bất cọng hòa hiệp sanh nên không có tự tánh”.

(Phẩm Thập Vô, thứ 25)

Năm ấm sắc thọ tưởng hành thức tạo thành mỗi cá nhân cho đến tất cả những người khác, và tất cả những kinh nghiệm của con người tạo thành thế giới như nó thấy biết, đều không có tự tánh.

Vì sao không có tự tánh? “Vì tất cả các pháp do hòa hiệp mà sanh nên không có tự tánh”. Hòa hiệp mà sanh nghĩa là do nhiều nhân duyên hòa hiệp một cách tạm thời mà có hiện hữu. Một nguyên nhân (nhân), một điều kiện (duyên) mà thiếu thì hiện hữu ấy biến đổi thành cái khác hoặc sụp đổ, tan rã.

Mọi sự vật, mọi con người, mọi hiện tượng đều do nhiều nhân duyên tạm thời hợp lại mà thành nên không có lõi cứng, rỗng không. Khi quán chiếu kỹ lưỡng, sẽ thấy chúng là không có lõi cứng, rỗng không, không có hiện hữu nội tại, không có tự tánh. Đây là một nghĩa của tánh Không.

 

Quán chiếu vô tự tánh của các hiện hữu giúp chúng ta buông bỏ sự bám nắm vào chúng. Càng bỏ bớt sự bám nắm vào các sự vật, càng bớt các phiền não, các độc tham, sân, si, mạn, nghi…, con người chúng ta càng không bị trói buộc, càng tự do, tức là càng giải thoát. Chính sự bám nắm, dính chặt này của tâm thức đã tạo ra thế giới hạn hẹp và trói buộc mà chúng ta gọi là sanh tử.

Những sự vật sở dĩ che chướng chúng ta để tạo thành phiền não chướng và sở tri chướng của riêng chúng ta là bởi vì sự bám nắm chặt chẽ của chúng ta vào chúng. Sự bám nắm chặt chẽ này là do chúng ta tin vào sự có tự tánh của chúng. Thế nên khi quán chiếu vô tự tánh, những che chướng, những bám nắm sẽ dần dần rơi rụng, để thật tướng tánh Không hiển lộ.

 

Những câu đầu tiên của phẩm Thập Vô trích ở trên nói rằng:

Ngài Tu Bồ Đề thưa với Phật: Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát biên tế trước chẳng thể đắc, biên tế sau chẳng thể đắc, biên tế giữa chẳng thể đắc. 

Vì sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên nên đại Bồ tát cũng vô biên

Sắc, thọ, tưởng, hành, thức là đại Bồ tát, đều chẳng thể đắc”.

Khi tánh Không hiển lộ, đó là thật tướng bát nhã, đó là trí huệ thấy biết trực tiếp tánh KhôngTrí huệthấy tánh Không là trí huệ thấy “sắc, thọ, tưởng, hành, thức vô biên, chẳng thể đắc”. Khi “sắc… là vô biên, chẳng thể đắc, nên Bồ tát cũng vô biên, chẳng thể đắc”. Bồ tát vô biên thì trí huệ của Bồ tátvô biênTrí huệ vô biên ấy là trí huệ thấu suốt tánh Khôngtrí huệ Bát nhã.

Tóm lại, thấy sắc, thọ,… là vô biên, đây là trí huệ Bát nhã.

 

2/ Quán chiếu như huyễn, như mộng. 

Phẩm Huyễn học, thứ 11, bắt đầu như thế này:

Ngài Tu Bồ Đề thưa: Bạch Thế Tôn! Nếu có người hỏi rằng: Người huyễn học Bát nhã ba la mậtcho đến Bố thí ba la mật, người huyễn học bốn Niệm xứ cho đến mười tám pháp Bất cọng có được Nhất thiết chủng trí chăng? Thì con phải giải đáp thế nào? 

Phật dạy: Này Tu Bồ Đề! Phật hỏi lại ông, tùy ý ông đáp lời Phật. 

Này Tu Bồ Đề! Sắc với huyễn có khác nhau chăng? Thọ, tưởng, hành, thức với huyễn có khác nhau chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không khác. 

- Này Tu Bồ Đề! Nhãn đến ý, sắc đến pháp, nhãn giới đến ý thức giới và huyễn có khác nhau chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không khác. 

- Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát học Bát nhã ba la mật như thế sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, như người huyễn học. Vì sao thế? Nên biết rằng năm ấm tức là người huyễn, người huyễn tức là năm ấm

- Này Tu Bồ Đề! Năm ấm ấy học Bát nhã ba la mật được Nhất thiết chủng trí chăng? 

- Bạch Thế Tôn, không vậy. Vì năm ấm này tánh vô sở hữu (không ở đâu cả). Tánh vô sở hữu cũng là chẳng thể đắc. 

- Này Tu Bồ Đề! Năm ấm như mộng, như ảo ảnh, như tiếng vang, như sóng nắng, như biến hóa…

Tại sao là như huyễn như mộng? Vì mọi sự đều vô tự tánh, rỗng không nhưng được các giác quanvà ý thức kinh nghiệm sai lầm là có tự tánhhoàn toàn có thật. Như một đám mây, một bọt nước, một cầu vồng, có thấy nhưng không thể bám nắm, cất giữ, để dành.

Năm ấm sắc, thọ, tưởng, hành, thức hợp tạo thành con người và thế giới theo kinh nghiệm của năm ấm con người đều như huyễn, như mộng. Năm ấm như huyễn hợp tạo thành người huyễn, năm ấm như mộng hợp tạo thành người trong mộng. Người huyễn thì kinh nghiệm một thế giới như huyễn và người trong mộng kinh nghiệm một thế giới trong mộng.

 

Quán chiếu Bát nhã là quán chiếu thân tâmthế giới và những người khác đều là những trải nghiệm trong một giấc mộng, không có thật, như huyễn. Với sự quán chiếu này người ta thoát khỏi tham, sân, si, giành giật, chiến đấu vì những điều không thật, những ảo tưởng của chính mình. Sở dĩ con người lọt vào một thế giới sanh tử khổ đau vì không biết thế giới ấy do các giác quan và ý thức hòa hợp tạo ra, không có tự tánhnhư huyễn, như mộng.

 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các vị! Như nhà huyễn thuật giỏi, ở giữa ngã tư đường hóa làm Phật và bốn bộ chúng rồi thuyết pháp. Ý các vị nghĩ sao, trong đó có người nói, có người nghe, có người hiểu chăng? 

Các thiên tử nói: Bạch đại đức, không có. 

Ngài Tu Bồ Đề nói: Này các vị! Tất cả pháp như huyễn ảo, trong đó không có người nói, người nghe, cũng không có người hiểu”.

Với sự quán chiếu như huyễn như mộng, sự phân biệt chia cách muôn đời giữa mình và người, mình và thế giới bị xóa tan để cho bản tánh của mọi sự là tánh Không hiển lộ. Khi ấy ánh sáng tríhuệ tánh Không thấu thoát qua mọi hiện tướng, biến chúng thành như huyễn như mộng và người ta không còn bị ràng buộc vào thế giới này, mặc dù vẫn sống trong thế giới ấy để giúp đỡ những người khác thoát khỏi ảo tưởng huyễn mộng của họ.

Một thí dụ thường thấy trong kinh, luận là bóng và gương. Bóng là các “hiện tướng”, các “ảnh hiện”. Gương là bản tánh Không của các hiện tướng, các ảnh hiện. Với người bình thường chưa học pháp thì không biết các hiện tướng, các ảnh hiện là vô tự tánh và họ chạy theo chúng. Khi quán chiếu bát nhã, tức là quán chiếu vô tự tánhnhư huyễn như mộng,…dần dần gương sáng hiện raGương sáng càng hiện thì tướng, ảnh càng trở lại bản chất thật của chúng là không thể nắm bắt, không thể đắc, không có ở đâu cả (vô sở hữu). Khi ấy ánh sáng của gương thấu thoát qua mọi bóng trong gương bấy giờ chúng trở thành không có tự tánh, không thể đắc, như huyễn như mộng. 

Kinh nói quán chiếu Bát nhã như trên, đó là “năng lực phương tiện của Bát nhã ba la mật”. Phương tiện thiện xảo này giúp cho Bồ tát khỏi rớt vào sanh tửđồng thời không giải thoát cho riêng mình để ở trong thế giới của chúng sanh mà giúp đỡ, cứu thoát chúng sanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 58)
Trong vòng luân hồi sinh tử vô tận, ái được xem là sợi dây vô hình trói buộc chúng sanh vào đau khổ.
(Xem: 98)
Đạo Phật có cả một kho tàng giáo lý đa dạng và thực hành phong phú đáng kinh ngạc để phát triển tình yêu thương và từ bi tâm
(Xem: 158)
Cụm tháp Bạc sừng sững trên đồi cao lộng gió, dưới chân có khúc quanh của dòng sông Côn.
(Xem: 217)
Đức Phật có dạy pháp phóng sinh hay không? Trong rất nhiều kinh, Đức Phật đã dạy là hãy yêu thươngvà đừng hại bất kỳ sinh mạng chúng sinh nào.
(Xem: 250)
Hàng ngày tôi có thói quen ngồi tọa thiền và sau đó đi kinh hành. Địa điểm đi kinh hành tuyệt vời và may mắn nhất
(Xem: 294)
Xa xa tận chân trời, mãi mãi nhìn theo mây trắng bay. Lá vàng rơi lác đác, cuồng cuộn về đến núi rừng. Vào Thu có nhiều, lá vàng, gió Thu thổi ra biển cả.
(Xem: 406)
Các nghiên cứu đã phát hiện ra rằng các chương trình chánh niệm tại trường học có thể giúp ích, đặc biệt là ở các cộng đồng nghèo, nơi học sinh phải đối mặt với mức độ căng thẳng cao hơn.
(Xem: 511)
Trong giáo lý của Đức Thế Tôn, nghiệp (kamma) là một trong những pháp vận hành căn bản chi phối sự tái sinhvà đời sống của chúng sanh trong luân hồi.
(Xem: 415)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 469)
Con Tàu sầm sập lao trong màn đêm đen đặc, thỉnh thoảng vụt qua những thị trấn hay phố xá nhỏ ven đường le lói chút ánh sáng nhạt nhòa.
(Xem: 599)
Mùa An cư kiết hạ Phật lịch 2569 - Dương lịch 2025 lại trở về, là cơ hội quý báu để hàng hậu học chúng ta ôn lại lời Phật dạy
(Xem: 515)
Hầu như không có ai nghĩ xa hơn thế, nghĩ xa hơn cái chết. Đây là lý do tại sao chúng ta thiển cận và không nghĩ đến việc
(Xem: 700)
“Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn, Thiện duyên nan ngộ, Phật quốc nan sanh” là gì ?
(Xem: 673)
Thờ Phật không phải là cầu xin ban phúc hay tha tội, vì Ngài không phải thần linh mà là người thầy dạy cách thoát khỏi khổ đau mà chính ngài tìm kiếm, chứng nghiệm.
(Xem: 655)
Dòng đời xưa nay vẫn thế, từng đời từng đời nối tiếp nhau, thịnh suy bất định, tụ tán vô kỳ.
(Xem: 137)
Minh trong đạo Phật là tuệ giác, thấy biết như thật về vạn pháp. Khi thành đạo, Đức Phật chứng Tam minh(Túc mạng minh, Thiên nhãn minh, Lậu tận minh).
(Xem: 855)
Vesak theo truyền thống gắn liền với sự ra đời, giác ngộ và nhập Niết bàn của Đức Phật,
(Xem: 896)
Bồ Tát Đạo là con đường mà vị Bồ Tát phải đi qua. Đây là những giai đoạn mà một vị Bồ Tát kinh qua trên đường giác ngộ.
(Xem: 1080)
Trong triết lý sống của ông cha ta, có một câu nói nghe qua tưởng nghịch lý nhưng lại ẩn chứa sự minh triết sâu sắc
(Xem: 1218)
Hiện nay đang ở vào thời mạt thế, xuất hiện nhiều tà sư hướng dẫn Phật tử vào con đường sai lạc. Điều này không phải bây giờ mới có.
(Xem: 1235)
Bài này được viết với chủ đề ghi lời Đức Phật dạy rằng hãy giữ thân không bệnh, để có thể học và tu pháp giải thoát.
(Xem: 1272)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn, sau khi Ngài ly thế, cũng chính là vào thời kỳ Mạt pháp thì
(Xem: 998)
Đạo đức không còn là một khái niệm, một lời kêu gọi ‘hãy sống thiện’, một giá trị lý tưởng cao xa, mà là một thực thể cụ thể, ăn được, uống được, thu nạp được, và ăn uống được nên mới “say”.
(Xem: 1213)
Quan điểm cho rằng tâm trí của chúng ta có chiều sâu vô thức đã trở nên phổ biến do sự phổ biến của phân tâm học và các kỹ thuật trị liệu liên quan.
(Xem: 1367)
Trong kinh điển Phật giáo, từ Hán tạng cho đến Nikāya nói chung, thật sự không quá khó để tìm thấy những cụm từ liên quan đến một phương tiện
(Xem: 1247)
Người học Phật, chẳng những phải tham cứu chơn lý, mà lại cần phải y như chơn-lý mà thiệt thành cho đến khi chứng đặng chơn-lý;
(Xem: 1257)
Phật tánhchủ đề chính của Kinh Đại Bát Niết Bàn do ngài Đàm Vô Sấm (385 – 433) mang qua Trung Hoa và dịch.
(Xem: 1480)
Đôi khi bạn rơi vào một diễn đàn Phật pháp trên Internet, bất ngờ lại thấy tranh cãi bộ phái, rằng chuyện Nam Tông thế này và Bắc Tông thế kia
(Xem: 1436)
Trong giáo lý nhà Phật, "kham nhẫn" và "nhẫn nhục" là hai phạm trù rất quan trọng trong việc tu tập.
(Xem: 1405)
Phật giáo cũng như vận mệnh của người dân, luôn thăng trầm theo thời cuộc.
(Xem: 1349)
Hãy buông xả và cuộc sống của bạn sẽ tốt hơn. Một kỹ năng sống không thể thiếu.
(Xem: 1106)
Từ thời học tiểu học, trong mỗi cuốn vở đều thấy có in dòng chữ “Ngày nay học tập, ngày mai giúp đời”.
(Xem: 2137)
Tôi không dám so sánh vì ai cũng có cuộc du hành cuối đời, tôi đã khá xúc động mạnh khi đọc kinh Đại Bát Niết Bàn hồi còn trẻ, nhưng hiện tại tôi đang tưởng niệm và cảm xúc đến Thầy tôi nên xin viết ra đây để kỷ niệm.
(Xem: 1140)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1069)
Năm ấy Bồ Đề Đạt Ma đến Trung Nguyên hoằng pháp. Ngài gặp Lương Võ Đế, một ông vua có tiếng sùng đạo, mến mộ Phật pháp.
(Xem: 1816)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1760)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta. Nó được gọi bằng nhiều tên trong nhiều truyền thống khác nhau.
(Xem: 1555)
Chúng con trân trọng kính mời quý vị tham gia một Ngày Quán Niệm với chủ đề “Tháng Tư Nuôi Dưỡng và Trị Liệu” dành cho các tăng thân người Việt do quý thầy và sư cô của Tu Viện Lộc Uyểnhướng dẫn tại Quận Cam.
(Xem: 2097)
Có khi nào bạn hỏi: “Tại sao khi càng lớn tuổi, người ta càng thích sống một mình và bớt đi nhiều mối quan hệ?”
(Xem: 1970)
Sâu thẳm bên trong tất cả chúng sinh là một loại tia lửa thắp sáng và sưởi ấm cuộc sống của chúng ta.
(Xem: 1260)
Bản kinh dưới đây là “Bahiya Sutta,” trong Tiểu Bộ Kinh (Khuddhaka Nikaya) trong Tam Tạng Pali,
(Xem: 2157)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần. Sau Tứ Như Ý TúcNgũ Căn, Ngũ Lực,
(Xem: 1756)
Sự kiện Đức Phật nhập Niết-bàn thường được các giới Phật giáo tổ chức thành một lễ hội thiêng liêng.
(Xem: 1195)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 1886)
Hộ niệm hay giáo hóa cho người bệnh sắp chết là pháp hành quan trọng và phổ biến trong thời đại Thế Tôn. Pháp tu này
(Xem: 1273)
Chúng ta hành thiền để tìm hạnh phúc, nhưng trước hết chúng ta phải mang chút hạnh phúc đến với thiền nếu ta muốn có kết quả.
(Xem: 2065)
Tứ Như Ý Túc, là pháp hành thứ ba, đứng sau Tứ Niệm XứTứ Chánh Cần.
(Xem: 1971)
Bộ Cao Tăng truyện của nhà sử học Phật giáo cao tăng Huệ Kiểu (497-554) là bộ sử liệu quan trọng
(Xem: 1160)
Trong Kinh Từ Bi (Metta Sutta). Đức Phật liệt kê mười lăm điều kiện thiện lành, tạo nên sự bình an bên trong, và đưa chúng ta đến lòng từ bi.
(Xem: 1188)
Khi đa số người trong một xã hội không có niềm tin về chính mình, không biết “tôi là ai”,
Quảng Cáo Bảo Trợ
AZCMENU Cloudbase: Giải pháp TV Menu thông minh, tiện lợi, chuyên nghiệp!
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM