Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm Thứ Năm - Phần III: Pháp Bố Thí

28 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10034)
Phẩm Thứ Năm - Phần III: Pháp Bố Thí

KINH BI HOA
Nguyễn Minh Tiến dịch và chú giải, Nguyễn Minh Hiến hiệu đính Hán văn

QUYỂN X: PHẨM THỨ NĂM - PHẦN III
PHÁP BỐ THÍ

Đức Phật Thích-ca Mâu-ni bảo Bồ Tát Tịch Ý: “Thiện nam tử! Từ đó về sau, lại trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, thế giới này đổi tên là Tuyển Trạch Chư Ác. Khi ấy đại kiếp có tên là Thiện Đẳng Ích, thế giới cũng có đủ năm sự uế trược.

“Về phương đông cách đây năm mươi bốn cõi thiên hạ, có cõi Diêm-phù-đề tên gọi là Lô-bà-la. Do nguyện lực nên ta sinh về nơi ấy, làm vị Chuyển luân Thánh vương cai quản Bốn cõi thiên hạ, hiệu là Hư Không Tịnh, giáo hóa các chúng sinh được trụ yên trong Mười điều lành cùng với giáo pháp Ba thừa.

“Thuở ấy ta làm việc bố thí cho hết thảy, không hề có chỗ phân biệt. Lúc bấy giờ có vô số người tìm đến để cầu xin ta những thứ như trân bảo, vàng bạc, lưu ly, pha lê, tiền tài, châu lưu ly xanh, châu lưu ly xanh loại lớn, hỏa châu ma-ni... Nhưng số trân bảo mà ta có được thật quá ít, không đáng kể so với vô số người đến xin nhiều như thế.

“Bấy giờ, ta liền hỏi quan đại thần: ‘Những trân bảo như vậy từ đâu mà có?’

“Quan đại thần đáp: ‘Từ nơi chỗ của các vị Long vương mà có. Nhưng tuy ở đó có trân bảo, cũng chỉ đủ cung cấp cho Thánh vương, không thể cho khắp những người đến xin nhiều như thế.’

“Khi ấy ta liền phát lời thệ nguyện lớn lao rằng: ‘Nếu như ta trong đời vị lai ở giữa cõi đời xấu ác có năm sự uế trược, phiền não sâu nặng, tuổi thọ con người là một trăm tuổi, chắc chắn sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, mọi sở nguyện đều thành tựu, được lợi ích bản thân, thì nay ta sẽ làm vị Đại Long vương hiện ra đủ mọi thứ kho báu trân bảo giữa cõi thế giới Tuyển Trạch Chư Ác này, ở khắp mọi nơi trong Bốn cõi thiên hạ, mỗi một cõi thiên hạ ta sẽ thọ thân sinh ra bảy lần, mỗi một lần sinh đều hiện ra vô lượng trăm ngàn vạn ức na-do-tha kho báu trân bảo, mỗi một kho báu ấy có bề ngang dọc đều rộng đến một ngàn do-tuần, đều chứa đầy đủ mọi thứ trân bảo, dùng để cung cấp, bố thí cho hết thảy những chúng sinh như trên đã nói.

“Giống như đã ở trong một cõi thế giới này mà tinh tấn chuyên cần làm việc bố thí như vậy, ta cũng lần lượt thọ sinh ở khắp các cõi thế giới xấu ác nhiều như số cát sông Hằng trong mười phương, những nơi ấy không có Phật ra đời, có đủ năm sự uế trược. Trong hết thảy các cõi thiên hạ ở mỗi một thế giới ấy, ta đều sẽ thọ thân sinh ra bảy lần, thị hiện có đủ mọi thứ trân bảo để bố thí chúng sinh như trên đã nói.’

“Thiện nam tử! Khi ta phát lời nguyện lành như vậy rồi, liền có trăm ngàn muôn ức chư thiên ở giữa không trung mưa xuống đủ mọi loại hoa thơmngợi khen rằng: ‘Lành thay, lành thay! Nhất Thiết Thí, nay ông sẽ được thành tựu đúng như chỗ phát nguyện trong lòng.’

“Thiện nam tử! Bấy giờ đại chúng đều nghe chư thiên tôn xưng đức vua Hư Không Tịnh là Nhất Thiết Thí. Nghe như vậy rồi, mỗi người đều tự nghĩ rằng: ‘Nay ta nên đến chỗ vua ấy cầu xin những vật rất khó xả bỏ. Nếu vua có thể xả bỏ được, như vậy mới xứng danh là Nhất Thiết Thí. Bằng như có vật không thể xả bỏ, làm sao có thể gọi là Nhất Thiết Thí?’

“Khi ấy, mọi người đều theo vua cầu xin những thứ như cung nữ, hoàng hậu, cho đến các công chúa, hoàng tử...

“Bấy giờ, vua Chuyển luân nghe những lời cầu xin như vậy liền dùng tâm hoan hỷtùy theo chỗ cầu xin của mỗi người đều bố thí cho tất cả.

“Lúc ấy, những người kia lại bảo nhau rằng: ‘Những thứ như vợ, con cũng vẫn còn dễ xả bỏ, chẳng phải chuyện khó làm. Nay chúng ta nên đến chỗ vua mà cầu xin những bộ phận trên thân thể. Nếu vua có thể xả bỏ mới thật sự xứng danh là Nhất Thiết Thí.’

“Những người ấy liền cùng nhau tìm đến chỗ vua. Trong số đó có một người thọ trì giới chó tên là Thanh Quang Minh, tâu với vua Chuyển luân rằng: ‘Đại vương! Nếu ngài quả là bậc xả bỏ tất cả, xin bố thí cho tôi cõi Diêm-phù-đề này.’

“Khi ấy, ta nghe như vậy liền sinh tâm hoan hỷ, dùng nước thơm tắm rửa sạch sẽ cho người ấy, cho mặc vào những y phục tốt đẹp mềm mại bậc nhất, rồi dùng nước làm lễ quán đỉnh, cho nối ngôi làm Thánh vương, mang cõi Diêm-phù-đề mà bố thí cho người ấy.

“Rồi ta lại phát nguyện rằng: ‘Nếu như nay ta dùng cả cõi Diêm-phù-đề này để bố thí, do nhân duyên này sẽ được thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu, được phần lợi ích bản thân, thì xin nguyện cho hết thảy nhân dân trong cõi Diêm-phù-đề này đều tôn kính thuận theo việc người này lên làm vua, lại khiến cho người này được thọ mạng vô lượng, làm vị vua Chuyển luân. Sau khi ta thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề rồi, sẽ thọ ký cho người này được quả vị Nhất sinh bổ xứ.’

“Có người bà-la-môn tên là Lô-chí, lại tìm đến ta cầu xin hai chân. Ta nghe như vậy liền sinh tâm hoan hỷ, cầm dao sắc tự chặt đứt hai chân, rồi đưa cho người ấy. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được đầy đủ đôi chân là giới luật cao trổi nhất.’

“Có người bà-la-môn tên là Hỗ, lại tìm đến ta cầu xin hai mắt. Ta nghe như vậy sinh lòng hoan hỷ, liền móc hai mắt ra đưa cho. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho trong đời vị lai được đầy đủ Năm thứ mắt cao trổi nhất.’

“Không lâu sau đó, lại có người bà-la-môn tên là Tịnh Kiên Lao, lại tìm đến ta cầu xin hai tai. Ta nghe như vậy rồi sinh lòng hoan hỷ, liền tự cắt hai tai đưa cho. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được đầy đủ tai nghe là trí huệ cao trổi nhất.’

“Lại không lâu sau đó, có người ni-kiền-tử tên là Tưởng, tìm đến ta để cầu xin nam căn. Ta nghe như vậy rồi sinh lòng hoan hỷ, liền tự tay cắt lấy đưa cho. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, được tướng Mã vương tàng.’

“Không lâu sau đó lại có người tìm đến hỏi xin ta máu thịt. Ta nghe như vậy rồi sinh lòng hoan hỷ, liền bố thí cho. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được đầy đủ thân tướng màu vàng ròng không ai sánh bằng.’

“Không lâu sau đó lại có người bà-la-môn tên là Mật Vị tìm đến ta cầu xin hai cánh tay. Ta nghe như vậy rồi sinh lòng hoan hỷ, tay phải cầm dao chặt đứt tay trái rồi nói rằng: ‘Nay còn cánh tay phải này ta không thể tự chặt, ông hãy đến đây chặt lấy.’ Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được đầy đủ cánh tay là lòng tin sâu vững.’

“Thiện nam tử! Khi ta cắt hết các bộ phận của thân thể như thế rồi, toàn thân máu nhuộm, lại phát nguyện rằng: ‘Nếu do nhân bố thí này ta chắc chắn sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu, được phần lợi ích bản thân, thì nguyện cho những phần còn lại trong thân thể đều sẽ có chúng sinh nhận thí.’

“Thời bấy giờ không có thánh nhân, người đời chẳng biết gì đến việc ân nghĩa, nên các tiểu vương và những quan đại thần thảy đều nói rằng: ‘Người sao mà ngu đến thế! Vì sao lại tự cắt xẻo thân thể, khiến cho mọi thứ đang tốt đẹp bỗng chốc thành tàn phế? Khối thịt dư này còn có giá trị gì?’

“Khi ấy, các quan đại thần liền mang thân thể còn lại của ta vất bỏ ra bãi tha ma hoang vắng bên ngoài thành, rồi kéo nhau ra về. Bấy giờ, vô số các loài ruồi nhặng, muỗi mòng... tranh nhau hút lấy máu ta; các loài chồn cáo, kên kên, diều quạ... cùng kéo đến ăn thịt ta.

“Trong lúc mạng sống còn chưa dứt hẳn, ta sinh tâm hoan hỷ, lại phát nguyện rằng: ‘Nay ta xả bỏ cả đời sống cũng như tất cả các bộ phận thân thể nhưng trong lòng không một mảy may sân hận hay hối tiếc, nếu như sở nguyện của ta thành tựu, được phần lợi ích bản thân, xin nguyện cho thân này hóa thành núi thịt lớn. Hết thảy những chúng sinh nào uống máu, ăn thịt để sống đều sẽ tìm đến đây, tùy ý ăn uống thỏa mãn.’

“Phát nguyện như vậy rồi, liền có những chúng sinh kéo đến để ăn thịt, uống máu. Do nguyện lực của ta nên thân thể khi ấy liền biến hóa cao lớn đến cả ngàn do-tuần, hai bề ngang dọc bằng nhau, đều năm trăm do-tuần, trong suốt một ngàn năm dùng máu thịt để cung cấp, bố thí chúng sinh.

“Vào thuở ấy, số lưỡi mà ta xả bỏ để bố thí đủ cho các loài cọp, sói, kên kên, diều, quạ... đều được ăn no. Do nguyện lực nên bố thí rồi lại sinh ra như cũ, nếu như gom hết số lưỡi ấy lại ắt thành đống lớn như núi Kỳ-xà-quật. Bố thí như vậy rồi lại phát nguyện rằng: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được thành tựu đầy đủ tướng lưỡi rộng dài.’

“Thiện nam tử! Thuở ấy, khi ta mạng chung tại cõi Diêm-phù-đề, do bản nguyện nên sinh vào loài rồng, làm vị Đại Long vương tên là Thị Hiện Bảo Tạng. Ngay trong đêm ta sinh ra, liền thị hiện trăm ngàn ức na-do-tha đủ mọi kho tàng trân bảo, tự truyền rao khắp nơi rằng: ‘Trong vùng này có rất nhiều kho tàng trân bảo. Trong các kho ấy đầy đủ các loại trân bảo và những vật quý lạ, vàng bạc cho đến bảo châu như ý đều có đủ.’

“Chúng sinh nghe lời truyền rao như thế, mỗi người đều tùy ý đến lấy các loại vật báu mang về dùng. Được dùng các vật báu ấy rồi liền thực hành đầy đủ Mười điều lành, phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hoặc phát tâm Thanh văn, tâm Bích-chi Phật.

“Thuở ấy ta bảy lần thọ sinh trở lại làm Long vương, tuổi thọ là bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha trăm ngàn tuổi, thị hiện vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kho tàng trân bảo bố thí cho chúng sinh. Lúc bấy giờ khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh được trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, khuyên dạy chúng sinh thực hành đầy đủ Mười điều lành. Sau khi dùng vô số đủ mọi thứ trân bảo bố thí đầy đủ cho chúng sinh rồi, lại phát nguyện rằng: ‘Nguyện cho ta trong đời vị lai được đầy đủ ba mươi hai tướng tốt.’

“Sau đó ta lại lần lượt thọ sinh bảy lần làm Long vương ở cõi thiên hạ thứ hai, cũng giống như vậy, cho đến khi tất cả mọi nơi trong Bốn cõi thiên hạ ở khắp thế giới Tuyển Trạch ta đều làm xong những việc lợi ích vô lượng như vậy cho chúng sinh, rồi cho đến trong vô lượng vô biên các cõi thế giới không có Phật ở khắp mười phương, mỗi một thế giới, mỗi một cõi thiên hạ ta cũng đều thọ sinh bảy lần làm vị Đại Long vương, tuổi thọ là bảy vạn bảy ngàn ức na-do-tha trăm nghìn tuổi, cũng thị hiện vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kho tàng trân bảo để bố thí cho chúng sinh như vậy.

“Thiện nam tử! Các ông nên biết, như vậy gọi là nhân duyên của đức Như Lai khi còn là Bồ Tát đã hết lòng tinh tấn cầu được ba mươi hai tướng tốt.

“Thiện nam tử! Sự tinh tấn của đức Như Lai khi còn là Bồ Tát, trong quá khứ chẳng có ai sánh kịp, chỉ trừ tám vị đã nói trước đây.

“Nếu như trong quá khứ đã không có ai sánh kịp, nên biết rằng các vị Bồ Tát trong đời vị lai cũng sẽ không thể chuyên cần thực hành một cách sâu xa đức tinh tấn được như ta đã làm.

“Thiện nam tử! Sau đó lại trải qua vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, thế giới này đổi tên là San-hô-trì, kiếp tên là Hoa Thủ. Thời ấy không có Phật ra đời, cõi thế có đủ năm sự uế trược. Ta sinh trong đời ấy làm vị Thích-đề-hoàn-nhân, tên là Thiện Nhật Quang Minh. Khi ấy ta xem xét cõi Diêm-phù-đề thấy các chúng sinh chuyển dần sang làm toàn việc ác, ta liền hóa thân làm quỷ dạ-xoa, hình dung rất đáng sợ, hiện xuống cõi Diêm-phù-đề, đứng trước mặt mọi người. Mọi người nhìn thấy ta đều sinh lòng khiếp sợ, hỏi rằng: ‘Ngài cần điều gì, xin hãy nói ra mau.”

“Khi ấy ta đáp: ‘Ta chỉ cần được ăn uống, chẳng cần gì khác.’

“Những người ấy lại hỏi: ‘Ngài ăn những món gì?’

“Ta đáp rằng: ‘Ta đây giết người để ăn thịt, uống máu. Nếu các ngươi có thể trọn đời thọ trì giới không giết hại, cho đến vâng theo chánh kiến, phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hoặc phát tâm Thanh văn, tâm Duyên giác, thì ta mới không ăn thịt các ngươi.’

“Thiện nam tử! Khi ấy ta dùng phép hóa hiện ra một hình người rồi ăn thịt, uống máu người ấy. Chúng sinh nhìn thấy ta ăn thịt, uống máu như vậy càng thêm khiếp sợ, hết thảy đều nguyện suốt đời thọ trì giới không giết hại, cho đến vâng theo chánh kiến, hoặc phát tâm A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, hoặc phát tâm Thanh văn, tâm Bích-chi Phật.

“Ta dùng cách ấy khuyên dạy hết thảy chúng sinh trong cõi Diêm-phù-đề, khiến cho tu tập, thực hành Mười điều lành, trụ yên trong giáo pháp Ba thừa, rồi lại phát nguyện rằng: ‘Nếu như ta chắc chắn sẽ thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề, sở nguyện thành tựu, được phần lợi ích bản thân, thì nay ta lại sẽ khuyên dạy chúng sinh trong bốn cõi thiên hạ này, khiến cho thực hành Mười điều lành, cho đến chúng sinh trong khắp cả thế giới này, ở tất cả mọi cõi thiên hạ, đều dùng tướng mạo hung dữ như vậy để khiến cho chúng sinh vâng làm theo Mười điều lành, khuyên dạy phát tâm Bồ-đề cho đến các tâm Thanh văn, Duyên giác.

“Sau khi đã làm được như vậy trong khắp một cõi thế giới rồi, lại tiếp tục như vậy với vô lượng vô biên a-tăng-kỳ cõi thế giới xấu ác trong mười phương, những nơi không có Phật ra đời và thế giới có đủ năm sự uế trược.’

“Thiện nam tử! Thuở ấy những lời phát nguyện như vậy của ta hết thảy đều thành tựu, ở thế giới San-hô-trì hóa làm hình tượng quỷ dạ-xoa đáng sợ để điều phục hết thảy chúng sinh, khiến cho trụ yên trong Mười điều lành cùng với giáo pháp Ba thừa.

“Tiếp tục như vậy cho đến khắp cả vô lượng vô biên a-tăng-kỳ cõi thế giới xấu ác có đủ năm sự uế trược trong mười phương, những nơi không có Phật ra đời, ta đều hóa làm hình tượng quỷ dạ-xoa để điều phục chúng sinh, khiến phải làm theo Mười điều lành, trụ yên trong giáo pháp Ba thừa.

“Thuở xưa ta dùng cách đe dọa chúng sinh để khiến cho họ phải làm theo Mười điều thiện, trụ yên trong giáo pháp Ba thừa. Do nhân duyên nghiệp báo như thế nên ngày nay khi ngồi dưới cội cây Bồ-đề vừa sắp thành tựu quả A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề thì có Thiên ma Ba-tuần cùng với chúng ma tìm đến chỗ ta, muốn phá hoại, làm rối loạn tâm đạo Bồ-đề của ta.

“Thiện nam tử! Đó là nói sơ qua việc ta thực hành pháp Bố thí ba-la-mật khi còn là Bồ Tát.

“Thiện nam tử! Pháp nhẫn rất thâm sâu của các vị Đại Bồ Tát, cùng với phép tổng trì,(1) tam-muội giải thoát, vào lúc ấy ta đều chưa đạt được, chỉ có thân hữu lậu và thân được năm phép thần thông. Nhưng khi ấy ta đã làm nên được những việc lớn lao như vậy, khiến cho vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh được trụ yên nơi A-nậu-đa-la Tam-miệu Tam-bồ-đề; vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh trụ yên nơi Bích-chi Phật thừa; vô lượng vô biên a-tăng-kỳ chúng sinh trụ yên nơi Thanh văn thừa, huống hồ là sau khi ta đã được cúng dường chư Phật nhiều như số hạt bụi nhỏ trong một cõi Phật, ở bên cạnh mỗi một vị Phật đều tạo được công đức nhiều như số giọt nước trong biển cả; lại cúng dường vô số các vị Thanh văn, Duyên giác, các bậc sư trưởng, cha mẹ, thần tiên ngũ thông... thảy đều như vậy.

“Như ta xưa kia khi còn làm Bồ Tát tự dùng máu thịt của mình để cung cấp, bố thí cho chúng sinh, tấm lòng đại bi như vậy các vị A-la-hán ngày nay đều không có được!”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33398)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6603)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11369)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30449)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30471)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8027)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12258)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12303)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11656)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12908)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34876)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9885)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52320)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10804)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10576)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10767)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10515)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13127)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16335)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21907)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9672)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7175)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10438)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12834)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12841)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16280)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16591)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13914)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16637)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12177)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13894)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14364)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9257)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11793)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11319)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16392)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14409)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16244)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12731)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12140)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11843)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15719)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11566)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14062)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12049)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12709)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15041)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11999)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13166)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14596)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20781)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13282)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 11010)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20762)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14420)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20455)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17707)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14074)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31913)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12068)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant