Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trang 2

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 18306)
Trang 2

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

PHẨM HIỀN THỦ
THỨ MƯỜI HAI

Nhà là chốn tham ái, ràng buộc

Muốn khiến chúng-sanh, đều khỏi lìa

Nên hiện xuất-gia được giải-thoát

Với các dục lạc không ưa thích.

Bồ-Tát hiện làm mười công-hạnh

Cũng làm tất cả pháp đại-nhơn

Làm hạnh chư Tiên đều không sót

Vì muốn chúng-sanh được lợi ích.

Nếu có chúng-sanh thọ vô-lượng

Phiền-não vi-tế thích đầy đủ

Trong đó Bồ-Tát được tự-tại

Hiện thọ các khổ : già, bịnh, chết.

Hoặc kẻ tham-dục, sân, ngu-si

Lửa mạnh phiền-não luôn hừng cháy

Bồ-Tát thị-hiện già, bịnh, chết

Khiến chúng-sanh đó đều điều-phục.

Như-Lai thập-lực, vô-sở-úy

Cùng với mười tám pháp bất-cộng

Tất cả vô-lượng các công-đức

Ðều đem thị-hiện độ chúng-sanh.

Thọ-ký, giáo-hóa và thần-túc

Ðều là sức tự-tại của Phật

Chư Ðại-Sĩ kia đều thị-hiện

Hay khiến chúng-sanh đều điều-phục.

Bồ-Tát đem các môn phương-tiện

Tùy thuận thế-pháp độ chúng-sanh

Ví như liên-hoa chẳng dính nước

Tại thế như vậy, khiến người tin.

Là vua văn tài, học uyên-bác

Ca vũ, luận bàn, người đều thích

Tất cả kỹ-thuật trong thế-gian

Như nhà ảo-thuật đều hiện đủ.

Hoặc làm trưởng-giả, chủ trong ấp

Hoặc làm thương mãi, người buôn bán

Hoặc làm quốc-vương cùng quan lớn

Hoặc làm lương-y, nhà hùng-biện.

Hoặc làm cây to giữa cánh đồng

Hoặc làm thuốc hay, những kho báu

Hoặc làm bửu-châu như-ý-vương

Hoặc đem chánh-đạo dạy chúng-sanh.

Nếu thấy thế-giới mới thành lập

Chúng-sanh chưa có vật cần dùng

Bấy giờ Bồ-Tát làm công-thợ

Vì họ bầy ra các nghề nghiệp.

Chẳng làm vật bức-não chúng-sanh

Chỉ nói chuyện thế-gian lợi-ích

Các luận : chú-thuật, dược-thảo thảy

Tất cả như vậy đều nói rành.

Thắng-hạnh của tất cả tiên-nhơn

Trời người, mọi loài đều tín-ngưỡng

Những pháp khổ-hạnh khó làm đó

Bồ-Tát tùy-nghi đều làm được.

Hoặc làm ngoại-đạo người xuất-gia

Hoặc ở núi rừng tự cần khổ

Hoặc để mình trần, không y-phục

Mà làm sư-trưởng của chúng kia.

Hoặc hiện những hạnh tà-mạng thảy

Tập làm phi-pháp cho là thắng

Hoặc hiện oai-nghi, làm phạm-chí

Ở trong chúng kia làm thượng-thủ.

Hoặc chịu ngũ-nhiệt, phơi dưới nắng

Hoặc giữ giới bò, chó và nai

Hoặc mặc áo rách, phụng-thờ lửa

Vì độ chúng kia, làm sư-trưởng.

Hoặc hiện yết-kiến các thiên-miếu

Hoặc lại hiện vào nước sông Hằng

Ăn củ, trái thảy, đều hiện làm

Nơi đó thường suy pháp tối-thắng.

Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chơn

Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro

Hoặc nằm trên chày, cầu xuất-ly

Mà ở chúng kia làm sư-thủ.

Như vậy các phái, các ngoại đạo

Quan-sát ý-giải cùng đồng-sự

Hiện làm : khổ-hạnh đời chẳng kham

Khiến họ xem thấy đều điều-phục.

Chúng-sanh mê-lầm bẩm tà-giáo

Trụ nơi ác-kiến, thọ những khổ

Vì họ, phương-tiện, nói diệu-pháp

Ðều khiến được hiểu lý chơn-thật.

Hoặc theo chú-ngữ nói tứ-đế

Hoặc giỏi mật-ngữ nói tứ-đế

Hoặc dùng tiếng người nói tứ-đế

Hoặc Trời mật-ngữ nói tứ-đế.

Phân-biệt văn-tự, nói tứ-đế

Quyết-định nghĩa-lý, nói tứ-đế

Khéo phá nơi người, nói tứ-đế

Chẳng bị dao-động, nói tứ-đế,

Hoặc tiếng bát-bộ, nói tứ-đế

Hoặc tất cả lời, nói tứ-đế

Tùy ngôn-âm thế-gian hiểu được

Diễn thuyết tứ-đế, khiến giải-thoát.

Tất cả bao nhiêu các phật-tử

Ðều nói như vậy đủ tất cả

Biết cảnh-giới lời bất-tư-nghị

Ðây là thuyết-pháp tam-muội-lực.

Có thắng tam-muội tên an-lạc

Hay khắp cứu độ các quần sanh

Phóng đại quang-minh bất-tư-nghị

Khiến ai được thấy đều điều phục.

Quang-minh đã phóng tên thiện-hiện

Nếu có ai gặp quang-minh này

Tất được lợi-ích chẳng luống uổng

Nhơn đây được thành trí vô-thượng,

Bồ-Tát trước hiện nơi chư Phật

Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh-đạo

Cũng hiện tháp Phật và hình tượng

Vì thế nên thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên chiếu-diệu

Chói lấn tất cả sáng chư Thiên

Bao nhiêu ám-chướng đều tiêu-trừ

Khắp vì chúng-sanh làm lợi-ích.

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến cầm đèn sáng cúng-dường Phật

Do dùng đèn sáng cúng-dường Phật

Ðược thành thế-gian Vô-Thượng-Ðăng.

Thắp những đèn dầu và đèn tô

Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ

Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất

Dùng đây cúng Phật được quang này.

Lại phóng quang-minh tên tế-độ

Quang này giác ngộ tất cả chúng

Khiến họ phát tâm đại thệ-nguyện

Ðộ thoát quần-sanh trong dục-hải

Thời hay vượt qua bốn dòng nước

Bước đến thành vô-ưu giải-thoát.

Nơi những đường đi ngang sông lớn

Xây cất cầu đò và thuyền bè

Quở rầy hữu-vi khen tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệt-ái

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ xa lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát.

Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ-dục

Gẩm suy diệu-vị pháp giải-thoát

Thời hay dùng Phật pháp cam-lồ

Rưới tắt thế-gian những khát-ái.

Bố-thí ao, giếng, và khe suối

Chuyên cầu bồ-đề đạo vô-thượng

Quở trách ngũ-dục, khen thiền-định

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hoan-hỷ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ ái-mộ Phật bồ-đề

Phát tâm nguyện chứng vô-sư-đạo.

Tạo lập Như-Lai tượng đại-bi

Tướng hảo trang-nghiêm, ngự liên-tòa

Luôn khen những công-đức tối-thắng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ái-nhạo

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến lòng họ mến kính chư Phật

Mến kính tôn-pháp mến kính tăng;

Nếu tâm thường kính mến chư Phật

Kính mến Pháp và kính mến Tăng

Thời ở trong chúng-hội Như-Lai

Thành được pháp-nhẫn sâu vô-thượng.

Khai-ngộ chúng-sanh số vô-lượng

Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng-Bửu

Và dạy phát tâm tự-tại công-đức

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phước-tụ

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến họ thật hành nhiều bố-thí

Dùng đây nguyện cầu đạo vô-thượng.

Lập hội đại bố-thí vô-hạn

Ai đến cầu xin đều thỏa mãn

Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên cụ-trí

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi một pháp, trong một niệm

Ðều hiểu vô-lượng các pháp-môn.

Ví các chúng-sanh phân-biệt pháp

Nhẫn đến quyết-liễu nghĩa chơn-thật

Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-đăng

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến biết chúng-sanh tánh không-tịch

Tất cả các pháp vô-sử-hữu.

Diễn-thuyết các pháp không, vô-chủ

Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước

Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên pháp-tự-tại

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được vô-tận đà-la-ni

Tổng-trì tất cả các phật-pháp,

Cung-kính cúng-dường người trì-pháp

Cung-cấp hầu-hạ chư thánh-hiền

Ðem chánh-pháp thí cho chúng-sanh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên năng-xả

Quang này giác-ngộ kẻ xan-tham

Khiến biết tài vật là vô-thường

Thường thích bố-thí lòng không nhiễm.

Lòng keo-kiết khó điều, được điều

Biết của như mộng, như mây nổI

Thêm lớn tâm bố-thí thanh-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên trừ-nhiệt

Quang này giác-ngộ kẻ phạm giới

Khiến họ thọ-trì giới thanh-tịnh

Phát tâm nguyện chứng đạo vô-sư.

Khuyên đắc chúng-sanh thọ-trì giới

Mười nghiệp đạo lành đều thanh-tịnh

Lại khiến phát hướng bồ-đề tâm

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhẫn-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ sân hận

Khiến họ lìa sân, trừ ngã-mạn

Thường thích pháp nhu-hòa nhẫn-nhục.

Chúng-sanh bạo ác khó nhẫn được

Vì bồ-đề nên tâm chẳng động

Thường thích chánh-pháp-ngợi đức nhẫn-nhục

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên dũng-mãnh

Quang này giác-ngộ kẻ giải-đãi

Khiến họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi.

Nếu họ thường đối với Tam-Bảo

Cung-kính cúng-dường không nhàm mỏi

Thời hay vượt khỏi cảnh tứ-ma

Mau thành bực bồ-đề vô-thượng.

Khuyến hóa chúng-sanh khiến tinh-tấn

Thường siêng cúng-dường ngôi Tam-Bảo

Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng-hộ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tịch-tịnh

Quang này giác-ngộ kẻ loạn tâm

Khiến họ xa lìa tham, sân, si

Tâm chẳng dao động được chánh-định,

Xa lìa tất cả ác-trí-thức

Luận đàm vô-nghĩa, hạnh tạp nhiễm

Khen ngợi thiền-định, hạnh tịch-tịnh

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên huệ-nghiêm

Quang này giác-ngộ kẻ ngu mê

Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi

Lục căn, trí-huệ đều thông đạt,

Nếu hay chứng lý, hiểu duyên-khởi

Lục-căn, trí-huệ đều thông đạt

Thời được pháp tam-muội nhựt-đăng

Trí-huệ sáng tỏ thành phật-quả,

Của ngoài, trong thân đều hay xả

Vì đạo bồ-đề cầu chánh-pháp

Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên phật-huệ

Quang này giác-ngộ các hàm-thức

Khiến thấy vô-lượng vô-biên Phật

Ðều ngự trên bửu-tọa liên-hoa.

Khen Phật oai-đức và giải-thoát

Ngợi Phật tự-tại vô-hạn-lượng

Hiển thị phật-lực và thần-thông

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên vô-úy

Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi

Quỷ-mị bắt giữ, những độc hại

Tất cả đều khiến mau trừ diệt,

Hay ban vô-úy cho chúng-sanh

Gặp kẻ não-hại đều khuyên ngăn

Chẩn-tế kẻ cô cùng ách-nạn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên an-ổn

Quang này chiếu đến người tật bịnh

Khiến trừ tất cả sự khổ đau

Ðều được sự vui trong chánh-định,

Ban cho thuốc hay cứu các bịnh

Diệu-bửu sống lâu, hương thoa thân

Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên kiến-Phật

Quang này giác-ngộ người sắp chết

Khiến, tùy nhớ tưởng, thấy Như-Lai

Mạng chung được sanh cõi nước Phật,

Thấy kẻ lâm-chung khuyên niệm Phật

Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm

Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên lạc-pháp

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến nơi chánh-pháp luôn mến thích

Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,

Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết

Khiến người cầu pháp ý thỏa-mãn

Mến thích chánh-pháp siêng tu tập

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên diệu-âm

Quang này khai-ngộ chư Bồ-Tát

Hay khiến các tiếng trong ba cõi

Người đều nghe là tiếng của Phật,

Dùng âm-thinh lớn ca ngợi Phật

Bố-thí lạc, linh các âm nhạc

Khiến kháp thế-gian nghe tiếng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Phóng quang-minh tên thí cam-lộ

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến bỏ tất cả hạnh phóng-dật

Tu hành đầy đủ các công-đức,

Nói pháp hữu-vi chẳng an-ổn

Vô-lượng khổ-não đều đầy khắp

Hằng thích ca ngợi vui tịch-diệt

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tối-thắng

Quang này khai-ngộ tất cả chúng

Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe

Giới, định, trí-huệ pháp tăng thượng,

Thường thích ca ngợi tất cả Phật

Thắng-giới, thắng-định, thắng trí-huệ

Ðó là vì cầu đạo vô-thượng

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên Bửu-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến được bửu-tạng vô-cùng tận

Dùng đây cúng-dường chư Như-Lai,

Ðem các loại bửu-châu thượng-diệu

Dâng lên chư Phật và tháp Phật

Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên hương-nghiêm

Quang này giác-ngộ tất cả chúng

Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp

Quyết-định sẽ thành công-đức Phật,

Hương tốt quý giá dùng thoa đất

Cúng-dường tất cả đấng Tói-Tôn

Cũng dùng xây tháp và tượng Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tạp trang-nghiêm

Bửu-tràng, phan lọng số vô-lượng

Thắp hương, rải hoa, tấu âm-nhạc

Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,

Ðem những kỹ-nhạc vi-diệu ấy

Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp

Các thứ trang-nghiêm cúng-dường Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-khiết

Khiến mặt đại-địa đều bằng phẳng

Trang-nghiêm tháp Phật và chỗ ấy

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-vân

Hay khởi mây thơm hay nước thơm

Nước thơm rưới tháp và đình viện

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nghiêm-cụ

Khiến người thiếu áo được thượng-phục

Vật tốt nghiêm thân đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thượng-vị

Hay khiến kẻ đói được mỹ-thực

Các thứ ăn ngon đem bố-thí

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên đại-tài

Khiến kẻ nghèo cùng được của báu

Ðem vật vô-tận cúng Tam-Bảo

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhãn-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ mù được ngó thấy

Ðem đèn cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên nhĩ-thanh-tịnh

Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ

Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên tỹ-thanh-tịnh

Xưa chưa nghe hương, đều được nghe

Ðem hương cúng Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thiệt-thanh-tịnh

Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật

Trừ hẳn lời nói thô và ác

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thân-thanh-tịnh

Kể năm căn thiếu khiến hoàn cụ

Ðem thân lễ Phật và tháp Phật

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên ý-thanh-tịnh

Khiến kẻ quên-lãng được chánh-niệm

Tu-hành tam-muội đều tự-tại

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên sắc-thanh-tịnh

Khiến thấy Phật-sắc bất-tư-nghị

Ðem những diệu-sắc trang-nghiêm tháp

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên thinh-thanh-tịnh

Khiến biết thinh-tánh vốn không tịch

Quán thinh duyên-khởi, như tiếng vang

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên hương-thanh-tịnh

Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch

Nước thơm rửa tháp, cây bồ-đề

Do đây được thành quang-minh ấy.

Lại phóng quang-minh tên vị-thanh-tịnh

Hay trừ tất cả độc trong vị

Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ

Do đây được thành quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên xúc-thanh-tịnh

Hay khiến thô-nhám đều dịu mềm

Ðao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống

Ðều khiến biến làm tràng hoa đẹp,

Bởi xưa từng ở giữa đường sá

Thoa hương, rải hoa, trải y-phục

Rước đưa chư Phật đi trên đó

Vì thế nay được quang-minh này.

Lại phóng quang-minh tên pháp-thanh-tịnh

Hay khiến tất cả những chưn lông

Ðều diễn diệu-pháp bất-tư-nghị

Ai nghe pháp này đều vui hiểu,

Nhơn duyên sanh ra, vốn vô-sanh

Pháp-thân của Phật, chẳng phải thân

Pháp-tánh, thường-trụ như hư-không

Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.

Những môn quang-minh như đã thuật

Hằng-hà sa-số vô-hạn-lượng

Ðều từ chưn lông Ðại-Tiên phóng

Mỗi quang công-dụng đều sai-biệt.

Như một chưn lông phóng quang-minh

Vô-lượng vô-số như hằng-sa

Tất cả chưn lông đều như vậy

Ðây là Ðại-Tiên tam-muội-lực.

Như bổn-hạnh xưa, được quang-minh

Tùy ai, túc duyên, đồng tu-hành

Nay phóng quang-minh nên như vậy

Ðây là Ðại-Tiên trí tự-tại.

Thuở xưa đồng tự-tại nơi phước-nghiệp

Và người mến thích hay tùy-hỉ

Thấy kia thật hành cũng vui theo

Nay nơi quang này đều được thấy.

Nếu ai tự tu các phước-nghiệp

Cúng-dường chư Phật vô-lượng-số

Nơi công-đức Phật thường nguyện cầu

Ðược quang-minh này làm giác-ngộ.

Như kẻ sanh-manh chẳng thấy trời

Chẳng phải mặt trời không mọc lên

Những người mắt tỏ đều thấy rõ

Riêng theo phận mình làm công việc,

Quang-minh Bồ-Tát cũng như vậy

Người có trí-huệ đều thấy cả

Phàm-phu tà-tín, kẻ mê-si

Nơi quang-minh này không thấy được.

Ma-ni cung-điện và xe kiệu

Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng

Người có phước-đức tự nhiên đủ

Người không phước-đức chẳng ở được.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22297)
Năng Đoạn Kim Cương Bát-nhã Ba-la-mật Kinh, nguyên văn Sanskrit Devanagari hiện hành là: वज्रच्छेदिका नाम त्रिशतिका प्रज्ञापारमिता। Vajracchedikā nāma triśatikā prajñāpāramitā
(Xem: 16024)
Tam Tạng Pháp Sư Cưu Ma La Thập dịch từ Phạn sang Hán, Tỳ Kheo Thích Duy Lực Dịch Từ Hán Sang Việt
(Xem: 15032)
Pháp Hoakinh tối thượng của Phật giáo Đại thừa bởi vì cấu trúc của kinh rất phức tạp, ý nghĩa sâu sắc có lẽ vượt ra ngoài tầm tư duysuy luận của con người bình thường.
(Xem: 18956)
Chắc chắn dù có khen ngợi thì cũng không đủ nêu lên chỗ cao đẹp; dù có bài bác thì cũng chỉ càng mở rộng chỗ ảo diệu luận mà thôi. Luận Vật bất thiên của ngài Tăng Triệu...
(Xem: 14450)
Một thời, Đức Phật và một nghìn hai trăm năm mươi đại chúng tì-kheo cùng trụ ở tinh xá Mỹ Xưng phu nhân của trưởng giả Tu-đạt, rừng cây của thái tử Kì-đà, nước Xá-vệ.
(Xem: 18632)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 14431)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13588)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13554)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 11821)
Luận Đại Trí Độ là một bộ luận lớn, bộ luận căn bản của Phật pháp, giảng giải bao quát nhiều vấn đề liên quan đến học thuyết, tư tưởng, truyền thuyết, lịch sử, địa lý, các quy định thực tiễn, giới luật Tăng già;
(Xem: 13262)
Không khởi sinh cũng không hoại diệt, không thường hằng cũng không đứt đoạn. Không đồng nhất cũng không dị biệt, không từ đâu đến cũng không đi mất.
(Xem: 13665)
Do tánh Không nên các duyên tập khởi cấu thành vạn pháp, nhờ nhận thức được tánh Không, hành giả sẽ thấy rõ chư hành vô thường, chư pháp vô ngã, cuộc đời là khổ.
(Xem: 13939)
công đức của Pháp tánh là không cùng tận, cho nên công đức của người ấy cũng giống như vậy, không có giới hạn.
(Xem: 13252)
Phật Thích Ca gọi cái pháp của Ngài truyền dạy là pháp bản trụ. Nói bản trụ nghĩa là xưa nay vốn sẵn có.
(Xem: 15026)
Thanh tịnh đạo có thể xem là bộ sách rất quý trong kho tàng văn học thế giới, không thể thiếu trong nguồn tài liệu Phật học bằng tiếng Việt.
(Xem: 16164)
Không và Hữu là hai giáo nghĩa được Đức Phật nói ra để phá trừ mê chấp của các đệ tử.
(Xem: 11084)
Đây là một bộ Đại Tạng đã được nhiều học giả và các nhà nghiên cứu về Phật Học chọn làm bộ Đại Tạng tiêu biểu so với những bộ khác như...
(Xem: 16456)
Đại Thừa Khởi Tín Luận là bộ luận quan trọng, giới thiệu một cách cô đọng và bao quát về triết học đại thừa.
(Xem: 11907)
Công trình biên soạn này trình bày một cách rõ ràng từ lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống triết học Trung Quán cho đến khởi nguyên, cấu trúc, sự phát triển...
(Xem: 17599)
Hiện nay tôi giảng Phạm Võng Kinh Bồ Tát Giới Bổn để cho quý vị biết dù rằng muôn pháp đều không, nhưng lý nhân quả rõ ràng, không sai một mảy, cũng không bao giờ hư hoại.
(Xem: 12878)
Tâm hiếu thuậntâm từ bi giống nhau, vì hiếu thuận của Phật pháp không giống như hiếu thuận của thế gian.
(Xem: 13716)
Đức Phật ra đời suốt bốn mươi năm trời thuyết pháp, có đến hơn tám vạn bốn ngàn pháp môn. Pháp môn chính là phương pháp mở cửa tuệ giác tâm linh.
(Xem: 12865)
Nếu có duyên mà thọ và đắc từ Chư Phật và Bồ Tát thì sự thành tựu giới thể rất là vượt bực.
(Xem: 14861)
Trì Giớithực hành những luật lệđức Phật đặt ra cho Phật tử xuất gia thi hành trong khi tu hành, và cho Phật tử tại gia áp dụng trong cuộc sống để có đời sống đạo đức và hưởng quả báo tốt đẹp;
(Xem: 16390)
Chỉ tự quán thân, thiện lực tự nhiên, chánh niệm tự nhiên, giải thoát tự nhiên, vì sao thế? Ví như có người tinh tấn trực tâm, được giải thoát chân chánh, người như thế chẳng cầu giải thoátgiải thoát tự đến.
(Xem: 13128)
Trong nước mỗi mỗi báu ấy đều có sáu mươi ức hoa sen thất bửu. Mỗi mỗi hoa sen tròn đều mười hai do tuần.
(Xem: 12092)
Đối với Phật giáo, các nguồn gốc của mọi hành vi tác hại, thí dụ như ham muốn, thù hận và cảm nhận sai lầm được coi như là cội rể cho mọi sự xung đột của con người.
(Xem: 12774)
Năm Giới Tân Tu là cái thấy của đạo Bụt về một nền Tâm LinhĐạo Đức Toàn Cầu, mà Phật tử chúng ta trong khi thực tập có thể chia sẻ với những truyền thống khác trên thế giới
(Xem: 12918)
Nếu có nghe kinh này thọ trì đọc tụng giảng thuyết tu hành như lời, Bồ Tát này đã là cúng dường chư Phật ba đời rồi.
(Xem: 12791)
Các học giả Tây phương quan niệm hệ thống giáo lý Phật giáo từ các bản Pali, Sanskrit là kinh “gốc” và kinh sau thời đức Phật là kinh phát triển để...
(Xem: 14179)
Ở đây, chúng tôi chỉ cố gắng ghi lại nghĩa Việt theo khả năng học hiểu về cổ ngữ Sanskrit.
(Xem: 14121)
Chánh pháp quý giá của các ngài soi sáng khắp nơi và tuôn xuống như mưa cam-lộ. Tiếng nói của các ngài vi diệu đệ nhất.
(Xem: 16479)
Đây là một bộ kinh rất có ý nghĩalợi lạc vô cùng nếu được thường xuyên tụng đọc, hoặc giảng giải huyền nghĩa đến mọi người tín tâm.
(Xem: 12380)
Cần ban cho luật diện tiền liền ban cho luật diện tiền, cần ban cho luật ức niệm liền ban cho luật ức niệm,
(Xem: 14389)
Trong các pháp, tâm dẫn đầu, tâm làm chủ, tâm tạo tác ; Nếu nói hoặc làm với tâm ô nhiễm, sự khổ sẽ theo nghiệp kéo đến như bánh xe lăn theo chân con vật kéo.
(Xem: 11328)
Người đời thường nghiêng về hai khuynh hướng nhận thức, một là có, hai là không. Đây là hai quan niệm vướng mắc vào cái tri giác sai lầm.
(Xem: 11037)
Tâm bậc giác ngộ được nói là không còn bám trụ vào bất cứ gì trên đời (bất cứ đối tượng nào của thức)
(Xem: 13195)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13896)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức
(Xem: 13164)
Lời Phật dạy được thiết lập nhằm giới thiệu những lời dạy của Thế Tôn trong Kinh tạng Nikàya một cách ngắn gọn, nguyên thủy, dễ nhận thức...
(Xem: 13006)
Thế Tôn đã giảng đời sống phạm hạnh chi tiếtrõ ràng, toàn hảo, hoàn toàn tinh khiết.
(Xem: 13509)
Người không sầu muộn, không than vãn, không khóc lóc, không đập ngực, không rơi vào bất tỉnh, đây là hạng người bản tánh bị chết, không sợ hãi, không rơi vào run sợ khi nghĩ đến chết.
(Xem: 12739)
Đức Phật trình bày các điều bất thiện đều bắt nguồn từ tham, sân, si còn điều thiện là do lòng không tham, không sân, không si dẫn tới.
(Xem: 10234)
Đây nói về công đức của Bồ-tát sơ phát tâm, là để phân biệt với những gì đã nói về Nhị thừa...
(Xem: 13967)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau
(Xem: 10236)
Bát Nhãtrí tuệ, nhưng không giống như trí tuệ thế gian, cho nên thường gọi là Trí Tuệ Bát Nhã.
(Xem: 13705)
Chữ “Viên giác bồ tát” – Viên GiácGiác viên mãn. Từ trước đến đây, Phật đã nhiều lần chỉ dạy phương pháp tu hành để phá trừ Vô minhchứng nhập Viên giác.
(Xem: 16269)
Phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn thường được gọi đơn giảnphẩm Phổ Môn nghĩa là cánh cửa phổ biến, cánh cửa rộng mở cho mọi loài đi vào.
(Xem: 11968)
Pháp ấn là khuôn dấu của chánh pháp. Khuôn dấu chứng thực tính cách chính thống và đích thực. Giáo lý đích thực của Bụt thì phải mang ba dấu ấn chứng nhận đó.
(Xem: 12980)
Những lời Như Lai thuyết giảng trước các đại đệ tử năm nào cách đây hai mươi lăm thế kỷ hiện nay vẫn hiện tiền cho những ai có cái tâm kính cẩn lắng nghe.
(Xem: 11661)
Xuất sinh pháp Phật không gì hơn Hiển bày pháp giới là bậc nhất Kim cương khó hoại, câu nghĩa hợp Tất cả Thánh nhân không thể nhập.
(Xem: 12681)
Nơi tâm rộng, hơn hết Tột cùng không điên đảo Lợi ích chốn ý lạc Thừa nầy công đức đủ.
(Xem: 10799)
Giáo lý đạo Phật đặt nền tảng trên con người, lấy hạnh phúc con người làm trung tâm điểm để phát huy lý tưởng Bồ-tát đạo.
(Xem: 11001)
Kinh Duy Ma là một tác phẩmgiá trị về mặt văn học. Đó là một văn bản có giá trị giải tỏa mọi ức chế về mặt tư tưởng, giải phóng sự gò bó trói buộc...
(Xem: 10945)
Kinh Duy Ma là cái nôi của Đại thừa Phật giáo, kiến giải giáo lý theo chân tinh thần Đại thừa “Mang đạo vào đời làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiễm”.
(Xem: 11899)
Duy-ma-cật sở thuyết còn có một tên khác nữa là Bất tư nghị giải thoát. Đó là tên kinh mà cũng là tông chỉ của kinh.
(Xem: 12766)
Bộ Kinh này trình bày cảnh giới chứng nhập của Bồ Tát, có nhiều huyền nghĩa sâu kín nhiệm mầu, cao siêu...
(Xem: 11068)
Đức Phật thuyết Kinh Kim Cang là để dạy cho chúng ta làm thế nào để có được cuộc sống hạnh phúc, cảnh giới niết bàn.
(Xem: 12621)
Trong tập sách nầy gồm các bài giảng về giáo lý kinh Pháp Hoa cùng phân tích phẩm Tựa và phẩm Phương Tiện của kinh.
(Xem: 11327)
Tri kiến Phật là cái thấy biết không thuộc về kiến chấp ngã nơi thân, không thuộc về kiến chấp ngã nơi tâm (vọng tâm).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant