Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15418)
24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

 PHẨM ÐÂU SUẤT KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI BỐN
(Hán bộ quyển hai mươi ba)

Lúc đó do thần lực của Ðức Phật, Mười Phương ngoài vạn Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có một đại Bồ Tát cùng vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội :

Kim Cang Tràng Bồ Tát từ Diệu Bửu thế giới của Ðức Phật Vô Tận Tràng; Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ Diệu Lạc thế giới của Ðức Phật Phong Tràng; Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát từ Diệu Ngân thế giới của Ðức Phật Giải Thoát Tràng; Quang Minh Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim thế giới của Ðức Phật oai Nghi Tràng; Trí Tràng Bồ Tát từ Diệu Ma Ni thế giới của Ðức Phật Minh Tường Tràng; Bửu Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim Cang thế giới của Ðức Phật Thường Tràng; Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ Diệu Ba Ðầu Ma thế giới của Ðức Phật Tối Thắng Tràng; Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ Diệu Ưu Bát La thế giới của Ðức Phật Tự Tại Tràng; Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ Diệu Chiên Ðàn thế giới của Ðức Phật Phạm Tràng; Pháp Tràng Bồ Tát từ Diệu Hương thế giới của Ðức Phật Quan Sát Tràng.

Chúng Bồ Tát khi đến trước Ðức Phật và đảnh lễ Phật xong, tùy theo phương của mình đến, đều hóa hiện tòa sư tử Diệu Bửu Tạng rồi ngồi kiết già trên đó.

Thân của chư Bồ Tát đều phóng trăm ngàn ức na do tha vô số quang minh thanh tịnh cùng đại nguyện rời lìa những lỗi ác mà phát khởi, hiển thị pháp tự tại thanh tịnh của tất cả Phật.

Bởi chư Bồ Tátnguyện lực có thế cứu hộ khắp tất cả chúng sanh, tất cả thế gian đều thích thấy. Ai thấy Bồ Tát đều được lợi ích được điều phục.

Chúng Bồ Tát này đều đã thành tựu vô lượng công đức. Những là đi khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại, thấy pháp thân thanh tịnh không nương đỗ, dùng trí huệ thân hiện vô lượng thân, đến khắp Mười Phương phụng thờ Chư Phật, vào nơi vô lượng vô biên bất tư nghì pháp tự tại của Chư Phật, trụ nơi vô lượng môn Nhất thiết trí, dùng trí quang minh khéo rõ các pháp, ở trong các pháp được vô úy biện tài thuyết pháp vộ tận, dùng đại trí huệ khai môn tổng trì, huệ nhãn thanh tịnh thâm nhập pháp giới cảnh giới trí huệ không ngằn mé, rốt ráo thanh tịnh như hư không.

Tất cả Ðâu Suất Thiên cung trong thập phương thế giới đều có chư Bồ Tát đồng số lượng, đồng danh hiệu, thế giới và Chư Phật cũng đồng như nơi đây cả.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ hai gối phóng trăm ngàn ức na do tha quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới.

Chúng Bồ Tát ở các cõi kia đều thấy thần biến của Ðức Phật ở đây. Chúng Bồ Tát ở cõi đây đều thấy biến của tất cả Chư Phật kia.

Tất cả chúng Bồ Tát như vậy, cùng với đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, từ thuở xưa, đồng trồng căn lành tu Bồ Tát hạnh, đều đã ngộ nhập thậm thâm giải thoát tự tại của Chư Phật, được pháp giới thân bình đẳng, vào tất cả thế giớivô trụ, thấy vô lượng Phật đều qua kính thờ, trong một niệm đi khắp pháp giới tự tại vô ngại, tâm ý thanh tịnh như bửu châu vô giá, vô lượng vô số Chư Phật thường hộ niệm và đồng ban cho thần lực, đến nơi bờ rốt ráo đệ nhứt kia luôn dùng tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm luôn vào chỗ Nhứt thiết trí, đem nhỏ vào lớn, đem lớn vào nhỏ đều tự tại, thông đạt vô ngại đã được Phật thân, cùng Phật đồng an trụ, được Nhứt thiết trí, từ Nhứt thiết trí mà sanh ra thân, đều có thể theo vào chỗ sở hành của tất cả Như Lai mà khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ, đến bờ Kim Cang tràng đại trí kia, được Kim Cang định dứt các điều nghi hoặc, đã được tự tại thần thông của Chư Phật, vào khắp tất cả quốc độ mười phương, giáo hóa điều phục trăm ngàn muôn ức vô số chúng sanh, dầu không tham trước nơi tất cả số lượng mà có thể tu học thành tựu cứu cánh, phương tiện an lập các pháp.

Trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết vô lượng tạng công đức thanh tịnh vô tận như vậy, chúng Bồ Tát này đều được thành tựu.

Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai chẳng xuất thế

Cũng chẳng nhập Niết Bàn

Dùng sức bổn nguyện lớn

Thị hiện pháp tự tại.

Pháp này khó nghĩ bàn

Tâm không duyên đến được

Trí huệ đến bời kia

Mới thấy cảnh giới Phật.

Sắc thân chẳng phải Phật.

Âm thinh cũng chẳng phải

Nhưng chẳng lìa sắc, thinh

Thấy thần lực của Phật.

Trí kém chẳng biết được.

Cảnh giới thiệt của Phật

Tu hạnh thanh tịnh lâu

Mới thấy được cảnh Phật.

Chánh giác không chỗ lại

Ði cũng chẳng từ đâu

Sắc thân diệu thanh tịnh

Do thần lực hiển hiện.

Trong vô lượng thế giới

Thị hiện thân Như Lai

Nói rộng pháp vi diệu

Trong tâm không trụ trước.

Trí huệ không ngằn mé

Rõ thấu tất cả pháp

Vào khắp các pháp giới

Thị hiện sức tự tại.

Chúng sanh và các pháp

Rõ thấu đều vô ngại

Khắp hiện các sắc tượng

Cùng khắp tất cả cõi.

Muốn cầu Nhứt thiết trí

Chóng thành Vô Thượng Giác

Phải dùng tâm tịnh diệu

Tu tập hạnh Bồ đề.

Nếu ai thấy Như Lai

Oai thần lực như vậy.

Nơi đức Tối Thắng Tôn

Nên cúng dường chớ nghi.

Kiên Cố Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật tối thắng vô tỷ

Rất sâu bất khả thuyết

Vượt khỏi đường ngôn ngữ

Thanh tịnh như hư không.

Quán sát đấng Ðạo Sư

Sức tự tại thần thông

Ðã lìa nơi phân biệt.

Mà khiến phân biệt thấy.

Ðức Phật vì khai diễn

Pháp vi diệu thậm thâm

Vì do nhơn duyên ấy

Hiện thân vô tỷ này.

Ðây là chỗ Chư Phật

Ðại trí huệ sở hành

Nếu ai muốn biết rõ

Phải nên gần gũi Phật.

Ý nghiệp thường thanh tịnh

Cúng dường chư Như Lai

Trọn không lòng mỏi nhàm

Hay vào nơi Phật đạo.

Ðủ vô tận công đức

Trụ chắc tâm Bồ đề.

Do đây trừ lưới nghi

Quán Phật không nhàm mỏi.

Thông đại tất cả Pháp

Mới phải chơn Phật tử

Người này rõ biết được

Sức tự tại Chư Phật.

Trí quảng đại đã nói

Làm căn bổn các pháp

Nên sanh lòng hy vọng

Chí cầu Vô Thượng Giác.

Nếu ai tôn kính Phật

Nhớ báo đáp ơn Phật

Người đó chẳng xa lìa

Chỗ an trụ của Phật.

Ðâu có người trí huệ

Nơi Phật thường thấy nghe

Chẳng tu nguyện thanh tịnh

Nơi đường Phật đã đi.

Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như mắt tỏ sáng

Ban ngày thấy hình sắc

Tâm thanh tịnh cũng vậy

Nhờ Phật lực thấy Phật.

Như dùng sức tinh tấn

Hay tột nguồn đáy biển

Trí lực cũng như vậy

Thấy được vô lượng Phật.

Ví như ruộng phì nhiêu

Gieo trồng tất tươi tốt

Tâm thanh tịnh như vậy

Xuất sanh các Phật pháp.

Như người được bửu tạng

Lìa hẳn khổ nghèo cùng

Bồ Tát được Phật pháp

Tâm ly cấu thanh tịnh.

Ví như thuốc Già đà

Tiêu được tất cả độc

Phật pháp dùng như vậy

Diệt các hoạn phiền não.

Chơn thiệt thiện tri thức

Hạng Như Lai ngợi khen

Vì do oai thần kia

Ðược nghe những Phật pháp.

Giả sử vô số kiếp

Của báu cúng dường Phật.

Chẳng biết Phật thiệt tướng

Cũng chẳng gọi cúng dường.

Vô lượng những hình sắc

Trang nghiêm nơi thân Phật.

Chẳng phải trong hình sắc

Mà thấy được Ðức Phật.

Như Lai Ðẳng Chánh Giác

Tịch nhiên hằng bất động

Có thể khắp hiện thân

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ví như hư không giới

Bất sanh cũng bất diệt

Phật pháp cũng như vậy

Rốt ráo không sanh diệt

Quang Minh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nhơn gian và Thiên thượng

Tất cả các thế giới

Khắp thấy đức Như Lai

Sắc thân diệu thanh tịnh.

Ví như một tâm niệm

Hay sanh các thứ tâm

Như vậy một Phật thân

Khắp hiện tất cả Phật.

Bồ đề không hai pháp

Cũng không có các tướng

Mà ở trong hai pháp

Hiện thân tướng trang nghiêm.

pháp tánh không tịch

Sanh khởi như huyễn hóa

Sở hành luôn vô tận

Ðạo Sư hiện như vậy.

Tam thế tất cả Phật

Pháp thân đều thanh tịnh

Tùy kia chỗ đáng độ

Khắp hiện diệu sắc thân.

Như Lai chẳng nghĩ rằng

Ta hiện thân như vậy

Tự nhiênthị hiện

Chưa từng có phân biệt.

Pháp giới không sai biệt.

Cũng không chỗ tựa nương

Mà ở trong thế gian

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng phải hóa

Cũng chẳng phải chẳng hóa

Nơi trong pháp không hóa

Thị hiện thân biến hóa

Chánh giác chẳng lường được

Ðồng pháp giới hư không

Sâu rộng không bờ đáy

Ðường ngôn ngữ tuyệt hẳn.

Như Lai khéo thông đạt

Tất cả xứ hành đạo

Pháp giới các quốc độ

Qua đến đều vô ngại.

Trí Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu người tin thọ được

Nhứt thiết trí vô ngại

Tu tập hạnh Bồ đề

Tâm đó chẳng thể lường.

Trong tất cả quốc độ

Khắp hiện vô lượng thân

Mà thân không chỗ ở

Cũng chẳng trụ nơi pháp.

Mỗi mỗi chư Như Lai

Thần lực thị hiện thân

Bất tư nghì kiếp số

Tính đếm chẳng hết được.

Tam thế các chúng sanh

Trọn biết được số lượng

Việc thị hiện của Phật

Số lượng chẳng thể được.

Có lúc hiện một hai

Nhẫn đến vô lượng thân

Hiện khắp mười phương cõi

Thiệt ra không hai thứ.

Ví như trăng tròn sáng

Hiện khắp các dòng nước

Bóng hình dầu vô lượng

Mặt trăng vẫn không hai.

Trí vô ngại như vậy

Thành tựu bực Chánh Giác.

Hiện khắp tất cả cõi

Phật thể cũng không hai.

Chẳng một cũng chẳng hai.

Cũng chẳng phải vô lượng

Tùy chỗ đáng hóa độ

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng quá khứ

Cũng chẳng phải vị lai.

Một niệm hiện xuất sanh

Thành đạoNiết Bàn.

Hiện hình sắc như huyễn

Không sanh cũng không khởi

Phật thân cũng như vậy

Thị hiện không có sanh.

Bửu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật thân vốn vô lượng

Thiện hiện thân hữu lượng

Tùy chúng chỗ nân thấy

Ðạo Sư hiện như vậy.

Phật thân không nơi chỗ

Ðầy khắp tất cả chỗ

Như hư không vô biên

Khó nghĩ bàn như vậy.

Chẳng phải chỗ tâm duyên

Tâm chẳng khởi trong đó

Trong cảnh giới Chư Phật

Rốt ráo không sanh diệt.

Như mắt lòa xem thấy

Chẳng trong cũng chẳng ngoài

Thế gian thấy Chư Phật

Phải biết cũng như vậy.

Vì lợi ích chúng sanh.

Nên Phật hiện ra đời

Chúng sanh thấy có hiện

Thiệt thì không có hiện.

Chẳng thể dùng quốc độ

Ngày đêm mà thấy Phật

Năm tháng một sát na

Phải biết đều như vậy.

Chúng sanh nói như vậy

Ngày đó Phật thành đạo

Như Lai được Bồ đề.

Thiệt chẳng thuộc thời gian.

Như Lai lìa phân biệt

Rời thời gian, không gian

Tam thế chư Như Lai

Xuất hiện đều như vậy.

Ví như mặt trời sáng

Chẳng hiệp cùng đêm tối

Mà nói ngày đêm ấy

Phật pháp đều như vậy.

Tam thế tất cả kiếp

Chẳng cùng Như Lai hiệp

Mà nói tam thế Phật

Phật pháp đều như vậy.

Tinh tấn Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả các Ðạo Sư

Thân đồng nghĩa cũng đồng

Khắp cả mười phương cõi

Tùy nghithị hiện.

Quan sát đấng Mâu Ni.

Chỗ làm rất kỳ đặc.

Ðầy khắp cả pháp giới

Tất cả đều không thừa.

Phật thân chẳng ở trong

Cũng chẳng ở nơi ngoài

Thần lực nên hiển hiện

Ðạo Sư pháp như vậy.

Theo các loài chúng sanh.

Nghiệp đã họp đời trước

Những loại thân như vậy.

Thị hiện đều chẳng đồng.

Thân Chư Phật như vậy

Vô lượng chẳng đếm được

Chỉ trừ đấng Ðại Giác

Không ai nghĩ bàn được.

Như ngã nan tư kia

Tâm nghiệp chẳng đến được

Phật nan tư cũng vậy

Chẳng phải tâm nghiệp hiện.

Như quốc độ nan tư

Mà thấy tịnh trang nghiêm

Phật nan tư cũng vậy

Diệu tướng đều hiện đủ.

Ví như tất cả pháp

Do các duyên sanh khởi

Thấy Phật cũng như vậy

Tất nhờ ác thiện nghiệp.

Ví như châu như ý

Hay thoả mãn lòng chúng

Chư Phật pháp như vậy

Thỏa mãn tất cả nguyện.

Trong vô lượng quốc độ.

Ðạo Sư hiện ra đời

tùy theo nguyện lực

Ứng hiện khắp mười phương

Ly Cấu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai không sở trụ

Mà trụ tất cả cõi

Tất cả cõi đều qua

Tất cả nơi đều thấy,

Phật tùy tâm chúng sanh

Hiện khắp tất cả thân

Thành đạo chuyển Pháp luân

Và cùng nhập Niết Bàn.

Chư Phật bất tư nghì

Ai tư nghì được Phật.

Ai thấy được Chánh Giác.

Ai hiện được tối thắng.

Tất cả pháp đều "Như"

Cảnh giới Phật cũng vậy.

Nhẫn đến không một pháp

Trong "Như" có sanh diệt.

Chúng sanh vọng phân biệt.

Là Phật là thế giới

Người liễu đạt pháp tánh

Không Phật không thế giới.

Như Lai khắp hiện tiền

Khiến chúng sanh tin mừng

Phật thể bất khả đắc.

Cũng lại không sở kiến.

Nếu được nơi thế gian

Trọn xa lìa chấp trước

Vô ngại lòng hoan hỷ

Nơi pháp được khai ngộ.

Thần lực tự tại hiện

Chính đây gọi là Phật

Trong tất cả thế giới

Tìm cầu trọn không có.

Nếu biết được như vậy

Tâm ý và các pháp

Thấy biết trọn tất cả

Chóng được thành Như Lai,

Trong ngôn ngữ hiển thị

Tất cả Phật tự tại

Chánh giác siêu ngôn ngữ

Giả mượn ngôn ngữ nói.

Pháp Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Thà nên luôn thọ đủ

Tất cả khổ thế gian

Trọn chẳng xa Như Lai

Chẳng rời đấng Tự Tại.

Nếu có những chúng sanh

Chưa phát tâm Bồ đề

Ðược nghe danh hiệu Phật

Quyết định thành Chánh Giác.

Nếu có bực trí huệ

Một niệm phát đạo tâm

Quyết thành đấng Vô thượng

Cẩn thận chớ sanh nghi.

Như Lai đấng Tự Tại

Vô lượng kiếp khó gặp

Nếu sanh một niệm tin

Mau chứng đạo Vô thượng.

Giả sử trong mỗi niệm

Cúng dường vô lượng Phật

Chưa biết pháp chơn thật

Chẳng gọi là cúng dường.

Nếu nghe pháp như vậy

Chư Phật từ đây sanh

Dầu bị vô lượng khổ

Chẳng bỏ hạnh Bồ đề,

Một lần nghe đại trí

Pháp sở nhập của Phật

Khắp ở trong pháp giới

Thành tam thế Ðạo Sư,

Dầu tận vị lai tế

Ði khắp các cõi Phật

Chẳng cầu diệu pháp này

Trọn chẳng thành Bồ đề.

Chúng sanh vô thủy lại

Mãi lưu chuyển sanh tử

Chẳng rõ pháp chơn thật

Nên Chư Phật ra đời.

Các pháp chẳng thể hoại

Cũng không ai hoại được

Tự tại đại quang minh

Hiện khắp nơi thế gian.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19737)
Hạnh phúc hay khổ đau trong kiếp sống hiện tại và tương lai đều là kết cục của những ý nghĩ và hành động trong kiếp sống quá khứ hay bây giờ của chúng ta...
(Xem: 23991)
Tôi nghe như vầy, một thuở nọ đức Phậttịnh xá Trúc Lâm, thành Vương Xá, xứ Ma Kiệt Ðà, cùng với năm trăm vị đại tỳ kheo, đều là các bậc A La Hán...
(Xem: 41249)
Khi ấy đức Thế tôn vì các Tỳ-khưu mà nói Pháp Tứ Đế, thời các Tỳ-khưu đầy đủ Tam minhLục thần thông. Bấy giờ các Tỳ-khưu khuyến thỉnh đức Thế tôn chuyển Pháp luân.
(Xem: 19722)
Một khi chúng ta chấp nhận một truyền thống tôn giáo, thì điều ấy phải trở thành một bộ phận trong đời sống hằng ngày của chúng ta.
(Xem: 24031)
Những ai đó có thái độ yêu mến người khác nhìn những người khác quan trọng hơn hẳn chính mình và đánh giá sự giúp đỡ người khác trên tất cả những thứ khác.
(Xem: 21756)
Bắt đầu quan sát những hoạt động trong tâm ta - những ý nghĩ, cảm xúccảm giác. Chỉ quan sát những hoạt động tinh thần này mà không dính líu vào điều nào cả...
(Xem: 23331)
Đức Quan Thế Âm Bồ Tát vô cùng hoan hỷ về sự tu tậptâm thành của ta, Ngài tan thành một luồng ánh sáng trong suốt đi vào đỉnh đầu ta và an trú nơi tim ta.
(Xem: 27522)
Vi Diệu Pháp giúp chúng ta thấy rõ chơn tướng của các pháp và nhờ đó ta có thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con ngườithế gian.
(Xem: 26587)
Kinh Pháp Hoa tuyên thuyết hai thông điệp chính: (i) Tất cả chúng sanh đều có thể thành Phật, và (ii) Chỉ có một con đường tu học duy nhấtPhật thừa. Tam thừa chỉ là phương tiện dẫn dắt chúng sanh buổi ban đầu.
(Xem: 29354)
Thắng Pháp Tập Yếu Luận - Tỳ kheo Thích Minh Châu (dịch và giải) Viện Đại Học Vạn Hạnh 1973
(Xem: 33233)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 20216)
Luận về giáo ngữ đều có ba câu liền nhau là sơ thiện, trung thiện và hậu thiện. Sơ là dạy họ phát thiện tâm, trung là phá thiện tâm, hậu mới là thiện tốt.
(Xem: 25803)
Cái nhân bồ tát hạnh của Phật làm cho sự sống lâu của Phật đã không bao giờ hết. Phật ở bên ta... HT Thích Trí Quang dịch
(Xem: 20945)
Kinh Pháp hoa là kinh nói về pháp chân thực, hiện thực, vi diệu, nguyên vẹn của chư Phật, ví như hoa sen, nên Ngài La thập dịch là Diệu pháp liên hoa kinh.
(Xem: 31357)
Kinh Tăng Chi Bộ là một bộ kinh được sắp theo pháp số, từ một pháp đến mười một pháp, phân thành 11 chương (nipàtas). Mỗi chương lại chia thành nhiều phẩm (vaggas).
(Xem: 38615)
Hai mươi tám phẩm kinh Pháp-Hoa chan chứa tâm hạnh của Phật và đại Bồ-Tát, trải dài những con đường phương tiện giáo hóa thênh thang ngõ hầu mang chúng sanh từ phàm đến thánh...
(Xem: 21465)
Những ai hữu duyên đọc được kinh này, sẽ có chính kiến thấy được cuộc sống hiện tại là tấm gương phản chiếu quá khứ vị lai. Đúng như lời Phật dạy, mình không cần phải nhờ thầy xem bói mà chính mình là vị thầy bái cho mình hơn ai hết.
(Xem: 44301)
Lễ quy y theo Phật giáo là một buổi lễ tổ chức đơn giản cho cá nhân hay tập thể, xin gia nhập vào hàng ngũ Phật tử. Lễ này có thể tổ chức tại gia, chùa chiền...
(Xem: 29863)
Chủ đích của Thập Nhị Môn Luận là lý giải nhằm làm sáng tỏ giáo nghĩa thâm sâu cùng cực của Đại thừa. Cốt lõi quan trọng của giáo nghĩa này chính là đạo lý tánh Không...
(Xem: 42252)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 22163)
Kinh Ðịa Tạng được xem là một bộ "Hiếu Kinh" của Phật Giáo. Bồ Tát Ðịa Tạng là một vị Bồ Tát thực hành hiếu đạo, và là vị Bồ Tát hiếu thảo với cha mẹ nhất.
(Xem: 45806)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32144)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 23988)
Yếu chỉ của Kinh này là dùng nghĩa Duy Thức để phá kiến chấp của ngoại đạo, vì danh từ và nghĩa lý của ngoại đạo cũng tựa như lời Phật, xem thì ngoại đạo với Phật hai ý khác hẳn...
(Xem: 24423)
Giới là nghĩa uy nghi. Định là chẳng loạn động. Huệ là sự hiểu biết. Giải thoát là lìa khỏi các dây ràng buộc. Vô thượngvô lậu, dứt hết các phiền não.
(Xem: 29314)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 33945)
Hãy tu hành một pháp. Hãy quảng bá một pháp. Các ngươi sẽ thành tựu thần thông, loại bỏ các loạn tưởng, đạt được quả Sa-môn... TT Thích Đức Thắng dịch
(Xem: 27711)
Tăng Nhất A-hàm là so sánh sự mạch lạc của pháp rồi dùng số mà xếp thứ tự. Số tận cùng là mười, thêm vào một, nên gọi là Tăng Nhất... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 32185)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 21103)
Đạo là con đườngđạo Phậtcon đường đi đến giác ngộ. Có vô số cách đi trên con đường ấy – vô lượng pháp môn tu – tùy theo căn cơ, tính giác của từng cá thể...
(Xem: 28879)
Thanh Quy cũng như luật ngoài đời, do Tổ thuật mà giữ gìn đúng nghi cách. Nhưng Thanh Quy khởi đầu từ ngài Pháp Vân đời Lương (thế kỷ 5) ở chùa Quang Trạch.
(Xem: 21619)
Tập sách nhỏ này do các Thiền sinh tại Tu Viện Chơn Không ghi lại các buổi nói chuyện của Thầy Viện Chủ trong những buổi chiều tại Trai đường hoặc ở nhà khách.
(Xem: 28116)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 22091)
Thiện nam tử, nếu có ngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì không phải Phật ngữ. Thiện nam tử, nếu khôngngữ nghiệp của thân, miệng, ý thì gọi là Phật ngữ.
(Xem: 21458)
Sa môn hỏi Phật, lành là gì? lớn nhất là gì? Phật nói, đi theo đường đạo, giữ đúng lẽ chân, là lành. Chí nguyện phù hợp với đạo là lớn nhất.
(Xem: 19541)
Phật dạy: Người có nhiều tội lỗi, không biết tự ăn năn sửa đổi, tội ấy chồng chất vào mình, chẳng khác gì nước dồn về biển, càng ngày càng nhiều... HT Thích Thanh Cát
(Xem: 19491)
Đức Phật dạy: "Những người xuất gia làm Sa-môn đoạn dục, khứ ái, nhận biết nguồn tâm của mình, thông đạt đạo lý thâm sâu của Phật và tỏ ngộ pháp Vô-vi.
(Xem: 19850)
Sau khi thành đạo, đức Thế-Tôn suy nghĩ rằng: “Lìa bỏ sự ham muốn, an- trụ trong vẳng-lặng, là điều cao hơn cả!”. Ngài an-trụ trong đại-định và hàng-phục các ma-đạo.
(Xem: 19283)
Đức Thế-Tôn nói qua về hành-tướng của nhân-duyên rằng: Do duyên kia sinh ra quả, nên dù Như-Lai xuất-hiện ra đời hay không xuất-hiện ra đời đi nữa, tính của mọi pháp (sự-vật) vẫn thường-trụ.
(Xem: 29232)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 20644)
Để có một đời sống hạnh phúc an lạc – những ngày hạnh phúc và những đêm an lạc – điều cực kỳ quan trọng là phối hợp sự thông tuệ của con người với những giá trị căn bản của nhân loại.
(Xem: 28325)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 23676)
Thiền Sư Phổ Chiếu thật đã ngộ Chơn Tâm thấy được bản tánh. Vì lòng từ bi vô lượng, Ngài chẳng tiếc những sợi lông mày, mở cửa phương tiện để dẫn dắt kẻ hậu lai.
(Xem: 33230)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31878)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 21416)
Giới luậtuy nghi không phải là những yếu tố hạn chếbó buộc, trái lại đó là những phương tiện bảo vệ tự do cá nhân và tạo nên sự hòa hợpan lạc cho đoàn thể tu học mình.
(Xem: 39669)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 21588)
Nhân Giới sinh Định, nhân Định phát Tuệ– ba môn học liên kết chặt chẽ vào nhau, nhờ vậy mới đủ sức diệt trừ tham ái, đẩy lùi vô minh, mở ra chân trời Giác ngộ.
(Xem: 19406)
Tâm bồ-đề cũng như hư-không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư-không, là nói về trí chân-không bình-đẳng.
(Xem: 26434)
Kinh Nghĩa Túc đã bắt đầu dạy về không, vô tướng, vô nguyệnbất khả đắc. Kinh Nghĩa Túc có những hình ảnh rất đẹp về một vị mâu ni thành đạt.
(Xem: 24856)
"Không" nếu làm "không" được thì chẳng phải chơn không, "sắc" nếu làm "sắc" được thì chẳng phải chơn sắc; Chơn sắc vô tướng, chơn không vô danh...
(Xem: 21774)
Khi niệm Phật dụng công chặt chẽ kín đáo thì vọng tưởng thô cố nhiên phải lặng chìm, nhưng rất khó nhận được tướng qua lại của phần vọng tưởng vi tế.
(Xem: 22414)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc của Vô thượng Bồ đề”. Do đó, tinh thần căn bản của Phật giáo là ở sự tôn nghiêm của giới luật, tức là đệ tử của Phật phải tôn trọng và tuân giữ giới luật.
(Xem: 29168)
TRUNG LUẬN có năm trăm bài kệ, là tác phẩm của Long Thọ. Lấy chữ Trung mà nêu Danh, là để soi tỏ cái Thật, lấy chữ Luận mà gọi tên, là để suốt cùng ngôn ngữ.
(Xem: 22583)
Hệ thống Kalachakra hay “bánh xe thời gian” hay ‘thời luân’ của Mật Pháp Tương Tục Du Già Tối Thượng bổ sung thêm xa hơn những sự song hành nội tại và ngoại tại.
(Xem: 20489)
Một trong những phương pháp tu tập của bồ tát hay động cơ chính khiến bồ tát hành bồ tát hạnh (Boddhisattvā-cāryā) không mệt mỏituệ giác tánh không.
(Xem: 23560)
Các pháp vốn không có tự tánh (vô tự tánh) nên không có tướng Hữu, thế mà bảo rằng có sự việc như thế, vì vậy nên cái việc (cho rằng) có đó hoàn toàn không hợp lý.
(Xem: 21262)
Trung Quán Luận gồm 27 phẩm, mặc dù có quán có phá, kỳ thực quán cũng là phá. Bất cứ hữu vi pháp, vô vi pháp, tất cả đều phá.
(Xem: 35379)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
(Xem: 24579)
Chơn tâm, Phật tánh thì lúc nào cũng như như bình đẳng, không cột mà cũng không cởi, nhưng con ngườichấp trước mê lầm nên thấy có ràng buộc và cởi mở để được giải thoát.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant