Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15409)
24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

 PHẨM ÐÂU SUẤT KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI BỐN
(Hán bộ quyển hai mươi ba)

Lúc đó do thần lực của Ðức Phật, Mười Phương ngoài vạn Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có một đại Bồ Tát cùng vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội :

Kim Cang Tràng Bồ Tát từ Diệu Bửu thế giới của Ðức Phật Vô Tận Tràng; Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ Diệu Lạc thế giới của Ðức Phật Phong Tràng; Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát từ Diệu Ngân thế giới của Ðức Phật Giải Thoát Tràng; Quang Minh Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim thế giới của Ðức Phật oai Nghi Tràng; Trí Tràng Bồ Tát từ Diệu Ma Ni thế giới của Ðức Phật Minh Tường Tràng; Bửu Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim Cang thế giới của Ðức Phật Thường Tràng; Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ Diệu Ba Ðầu Ma thế giới của Ðức Phật Tối Thắng Tràng; Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ Diệu Ưu Bát La thế giới của Ðức Phật Tự Tại Tràng; Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ Diệu Chiên Ðàn thế giới của Ðức Phật Phạm Tràng; Pháp Tràng Bồ Tát từ Diệu Hương thế giới của Ðức Phật Quan Sát Tràng.

Chúng Bồ Tát khi đến trước Ðức Phật và đảnh lễ Phật xong, tùy theo phương của mình đến, đều hóa hiện tòa sư tử Diệu Bửu Tạng rồi ngồi kiết già trên đó.

Thân của chư Bồ Tát đều phóng trăm ngàn ức na do tha vô số quang minh thanh tịnh cùng đại nguyện rời lìa những lỗi ác mà phát khởi, hiển thị pháp tự tại thanh tịnh của tất cả Phật.

Bởi chư Bồ Tátnguyện lực có thế cứu hộ khắp tất cả chúng sanh, tất cả thế gian đều thích thấy. Ai thấy Bồ Tát đều được lợi ích được điều phục.

Chúng Bồ Tát này đều đã thành tựu vô lượng công đức. Những là đi khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại, thấy pháp thân thanh tịnh không nương đỗ, dùng trí huệ thân hiện vô lượng thân, đến khắp Mười Phương phụng thờ Chư Phật, vào nơi vô lượng vô biên bất tư nghì pháp tự tại của Chư Phật, trụ nơi vô lượng môn Nhất thiết trí, dùng trí quang minh khéo rõ các pháp, ở trong các pháp được vô úy biện tài thuyết pháp vộ tận, dùng đại trí huệ khai môn tổng trì, huệ nhãn thanh tịnh thâm nhập pháp giới cảnh giới trí huệ không ngằn mé, rốt ráo thanh tịnh như hư không.

Tất cả Ðâu Suất Thiên cung trong thập phương thế giới đều có chư Bồ Tát đồng số lượng, đồng danh hiệu, thế giới và Chư Phật cũng đồng như nơi đây cả.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ hai gối phóng trăm ngàn ức na do tha quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới.

Chúng Bồ Tát ở các cõi kia đều thấy thần biến của Ðức Phật ở đây. Chúng Bồ Tát ở cõi đây đều thấy biến của tất cả Chư Phật kia.

Tất cả chúng Bồ Tát như vậy, cùng với đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, từ thuở xưa, đồng trồng căn lành tu Bồ Tát hạnh, đều đã ngộ nhập thậm thâm giải thoát tự tại của Chư Phật, được pháp giới thân bình đẳng, vào tất cả thế giớivô trụ, thấy vô lượng Phật đều qua kính thờ, trong một niệm đi khắp pháp giới tự tại vô ngại, tâm ý thanh tịnh như bửu châu vô giá, vô lượng vô số Chư Phật thường hộ niệm và đồng ban cho thần lực, đến nơi bờ rốt ráo đệ nhứt kia luôn dùng tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm luôn vào chỗ Nhứt thiết trí, đem nhỏ vào lớn, đem lớn vào nhỏ đều tự tại, thông đạt vô ngại đã được Phật thân, cùng Phật đồng an trụ, được Nhứt thiết trí, từ Nhứt thiết trí mà sanh ra thân, đều có thể theo vào chỗ sở hành của tất cả Như Lai mà khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ, đến bờ Kim Cang tràng đại trí kia, được Kim Cang định dứt các điều nghi hoặc, đã được tự tại thần thông của Chư Phật, vào khắp tất cả quốc độ mười phương, giáo hóa điều phục trăm ngàn muôn ức vô số chúng sanh, dầu không tham trước nơi tất cả số lượng mà có thể tu học thành tựu cứu cánh, phương tiện an lập các pháp.

Trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết vô lượng tạng công đức thanh tịnh vô tận như vậy, chúng Bồ Tát này đều được thành tựu.

Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai chẳng xuất thế

Cũng chẳng nhập Niết Bàn

Dùng sức bổn nguyện lớn

Thị hiện pháp tự tại.

Pháp này khó nghĩ bàn

Tâm không duyên đến được

Trí huệ đến bời kia

Mới thấy cảnh giới Phật.

Sắc thân chẳng phải Phật.

Âm thinh cũng chẳng phải

Nhưng chẳng lìa sắc, thinh

Thấy thần lực của Phật.

Trí kém chẳng biết được.

Cảnh giới thiệt của Phật

Tu hạnh thanh tịnh lâu

Mới thấy được cảnh Phật.

Chánh giác không chỗ lại

Ði cũng chẳng từ đâu

Sắc thân diệu thanh tịnh

Do thần lực hiển hiện.

Trong vô lượng thế giới

Thị hiện thân Như Lai

Nói rộng pháp vi diệu

Trong tâm không trụ trước.

Trí huệ không ngằn mé

Rõ thấu tất cả pháp

Vào khắp các pháp giới

Thị hiện sức tự tại.

Chúng sanh và các pháp

Rõ thấu đều vô ngại

Khắp hiện các sắc tượng

Cùng khắp tất cả cõi.

Muốn cầu Nhứt thiết trí

Chóng thành Vô Thượng Giác

Phải dùng tâm tịnh diệu

Tu tập hạnh Bồ đề.

Nếu ai thấy Như Lai

Oai thần lực như vậy.

Nơi đức Tối Thắng Tôn

Nên cúng dường chớ nghi.

Kiên Cố Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật tối thắng vô tỷ

Rất sâu bất khả thuyết

Vượt khỏi đường ngôn ngữ

Thanh tịnh như hư không.

Quán sát đấng Ðạo Sư

Sức tự tại thần thông

Ðã lìa nơi phân biệt.

Mà khiến phân biệt thấy.

Ðức Phật vì khai diễn

Pháp vi diệu thậm thâm

Vì do nhơn duyên ấy

Hiện thân vô tỷ này.

Ðây là chỗ Chư Phật

Ðại trí huệ sở hành

Nếu ai muốn biết rõ

Phải nên gần gũi Phật.

Ý nghiệp thường thanh tịnh

Cúng dường chư Như Lai

Trọn không lòng mỏi nhàm

Hay vào nơi Phật đạo.

Ðủ vô tận công đức

Trụ chắc tâm Bồ đề.

Do đây trừ lưới nghi

Quán Phật không nhàm mỏi.

Thông đại tất cả Pháp

Mới phải chơn Phật tử

Người này rõ biết được

Sức tự tại Chư Phật.

Trí quảng đại đã nói

Làm căn bổn các pháp

Nên sanh lòng hy vọng

Chí cầu Vô Thượng Giác.

Nếu ai tôn kính Phật

Nhớ báo đáp ơn Phật

Người đó chẳng xa lìa

Chỗ an trụ của Phật.

Ðâu có người trí huệ

Nơi Phật thường thấy nghe

Chẳng tu nguyện thanh tịnh

Nơi đường Phật đã đi.

Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như mắt tỏ sáng

Ban ngày thấy hình sắc

Tâm thanh tịnh cũng vậy

Nhờ Phật lực thấy Phật.

Như dùng sức tinh tấn

Hay tột nguồn đáy biển

Trí lực cũng như vậy

Thấy được vô lượng Phật.

Ví như ruộng phì nhiêu

Gieo trồng tất tươi tốt

Tâm thanh tịnh như vậy

Xuất sanh các Phật pháp.

Như người được bửu tạng

Lìa hẳn khổ nghèo cùng

Bồ Tát được Phật pháp

Tâm ly cấu thanh tịnh.

Ví như thuốc Già đà

Tiêu được tất cả độc

Phật pháp dùng như vậy

Diệt các hoạn phiền não.

Chơn thiệt thiện tri thức

Hạng Như Lai ngợi khen

Vì do oai thần kia

Ðược nghe những Phật pháp.

Giả sử vô số kiếp

Của báu cúng dường Phật.

Chẳng biết Phật thiệt tướng

Cũng chẳng gọi cúng dường.

Vô lượng những hình sắc

Trang nghiêm nơi thân Phật.

Chẳng phải trong hình sắc

Mà thấy được Ðức Phật.

Như Lai Ðẳng Chánh Giác

Tịch nhiên hằng bất động

Có thể khắp hiện thân

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ví như hư không giới

Bất sanh cũng bất diệt

Phật pháp cũng như vậy

Rốt ráo không sanh diệt

Quang Minh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nhơn gian và Thiên thượng

Tất cả các thế giới

Khắp thấy đức Như Lai

Sắc thân diệu thanh tịnh.

Ví như một tâm niệm

Hay sanh các thứ tâm

Như vậy một Phật thân

Khắp hiện tất cả Phật.

Bồ đề không hai pháp

Cũng không có các tướng

Mà ở trong hai pháp

Hiện thân tướng trang nghiêm.

pháp tánh không tịch

Sanh khởi như huyễn hóa

Sở hành luôn vô tận

Ðạo Sư hiện như vậy.

Tam thế tất cả Phật

Pháp thân đều thanh tịnh

Tùy kia chỗ đáng độ

Khắp hiện diệu sắc thân.

Như Lai chẳng nghĩ rằng

Ta hiện thân như vậy

Tự nhiênthị hiện

Chưa từng có phân biệt.

Pháp giới không sai biệt.

Cũng không chỗ tựa nương

Mà ở trong thế gian

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng phải hóa

Cũng chẳng phải chẳng hóa

Nơi trong pháp không hóa

Thị hiện thân biến hóa

Chánh giác chẳng lường được

Ðồng pháp giới hư không

Sâu rộng không bờ đáy

Ðường ngôn ngữ tuyệt hẳn.

Như Lai khéo thông đạt

Tất cả xứ hành đạo

Pháp giới các quốc độ

Qua đến đều vô ngại.

Trí Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu người tin thọ được

Nhứt thiết trí vô ngại

Tu tập hạnh Bồ đề

Tâm đó chẳng thể lường.

Trong tất cả quốc độ

Khắp hiện vô lượng thân

Mà thân không chỗ ở

Cũng chẳng trụ nơi pháp.

Mỗi mỗi chư Như Lai

Thần lực thị hiện thân

Bất tư nghì kiếp số

Tính đếm chẳng hết được.

Tam thế các chúng sanh

Trọn biết được số lượng

Việc thị hiện của Phật

Số lượng chẳng thể được.

Có lúc hiện một hai

Nhẫn đến vô lượng thân

Hiện khắp mười phương cõi

Thiệt ra không hai thứ.

Ví như trăng tròn sáng

Hiện khắp các dòng nước

Bóng hình dầu vô lượng

Mặt trăng vẫn không hai.

Trí vô ngại như vậy

Thành tựu bực Chánh Giác.

Hiện khắp tất cả cõi

Phật thể cũng không hai.

Chẳng một cũng chẳng hai.

Cũng chẳng phải vô lượng

Tùy chỗ đáng hóa độ

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng quá khứ

Cũng chẳng phải vị lai.

Một niệm hiện xuất sanh

Thành đạoNiết Bàn.

Hiện hình sắc như huyễn

Không sanh cũng không khởi

Phật thân cũng như vậy

Thị hiện không có sanh.

Bửu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật thân vốn vô lượng

Thiện hiện thân hữu lượng

Tùy chúng chỗ nân thấy

Ðạo Sư hiện như vậy.

Phật thân không nơi chỗ

Ðầy khắp tất cả chỗ

Như hư không vô biên

Khó nghĩ bàn như vậy.

Chẳng phải chỗ tâm duyên

Tâm chẳng khởi trong đó

Trong cảnh giới Chư Phật

Rốt ráo không sanh diệt.

Như mắt lòa xem thấy

Chẳng trong cũng chẳng ngoài

Thế gian thấy Chư Phật

Phải biết cũng như vậy.

Vì lợi ích chúng sanh.

Nên Phật hiện ra đời

Chúng sanh thấy có hiện

Thiệt thì không có hiện.

Chẳng thể dùng quốc độ

Ngày đêm mà thấy Phật

Năm tháng một sát na

Phải biết đều như vậy.

Chúng sanh nói như vậy

Ngày đó Phật thành đạo

Như Lai được Bồ đề.

Thiệt chẳng thuộc thời gian.

Như Lai lìa phân biệt

Rời thời gian, không gian

Tam thế chư Như Lai

Xuất hiện đều như vậy.

Ví như mặt trời sáng

Chẳng hiệp cùng đêm tối

Mà nói ngày đêm ấy

Phật pháp đều như vậy.

Tam thế tất cả kiếp

Chẳng cùng Như Lai hiệp

Mà nói tam thế Phật

Phật pháp đều như vậy.

Tinh tấn Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả các Ðạo Sư

Thân đồng nghĩa cũng đồng

Khắp cả mười phương cõi

Tùy nghithị hiện.

Quan sát đấng Mâu Ni.

Chỗ làm rất kỳ đặc.

Ðầy khắp cả pháp giới

Tất cả đều không thừa.

Phật thân chẳng ở trong

Cũng chẳng ở nơi ngoài

Thần lực nên hiển hiện

Ðạo Sư pháp như vậy.

Theo các loài chúng sanh.

Nghiệp đã họp đời trước

Những loại thân như vậy.

Thị hiện đều chẳng đồng.

Thân Chư Phật như vậy

Vô lượng chẳng đếm được

Chỉ trừ đấng Ðại Giác

Không ai nghĩ bàn được.

Như ngã nan tư kia

Tâm nghiệp chẳng đến được

Phật nan tư cũng vậy

Chẳng phải tâm nghiệp hiện.

Như quốc độ nan tư

Mà thấy tịnh trang nghiêm

Phật nan tư cũng vậy

Diệu tướng đều hiện đủ.

Ví như tất cả pháp

Do các duyên sanh khởi

Thấy Phật cũng như vậy

Tất nhờ ác thiện nghiệp.

Ví như châu như ý

Hay thoả mãn lòng chúng

Chư Phật pháp như vậy

Thỏa mãn tất cả nguyện.

Trong vô lượng quốc độ.

Ðạo Sư hiện ra đời

tùy theo nguyện lực

Ứng hiện khắp mười phương

Ly Cấu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai không sở trụ

Mà trụ tất cả cõi

Tất cả cõi đều qua

Tất cả nơi đều thấy,

Phật tùy tâm chúng sanh

Hiện khắp tất cả thân

Thành đạo chuyển Pháp luân

Và cùng nhập Niết Bàn.

Chư Phật bất tư nghì

Ai tư nghì được Phật.

Ai thấy được Chánh Giác.

Ai hiện được tối thắng.

Tất cả pháp đều "Như"

Cảnh giới Phật cũng vậy.

Nhẫn đến không một pháp

Trong "Như" có sanh diệt.

Chúng sanh vọng phân biệt.

Là Phật là thế giới

Người liễu đạt pháp tánh

Không Phật không thế giới.

Như Lai khắp hiện tiền

Khiến chúng sanh tin mừng

Phật thể bất khả đắc.

Cũng lại không sở kiến.

Nếu được nơi thế gian

Trọn xa lìa chấp trước

Vô ngại lòng hoan hỷ

Nơi pháp được khai ngộ.

Thần lực tự tại hiện

Chính đây gọi là Phật

Trong tất cả thế giới

Tìm cầu trọn không có.

Nếu biết được như vậy

Tâm ý và các pháp

Thấy biết trọn tất cả

Chóng được thành Như Lai,

Trong ngôn ngữ hiển thị

Tất cả Phật tự tại

Chánh giác siêu ngôn ngữ

Giả mượn ngôn ngữ nói.

Pháp Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Thà nên luôn thọ đủ

Tất cả khổ thế gian

Trọn chẳng xa Như Lai

Chẳng rời đấng Tự Tại.

Nếu có những chúng sanh

Chưa phát tâm Bồ đề

Ðược nghe danh hiệu Phật

Quyết định thành Chánh Giác.

Nếu có bực trí huệ

Một niệm phát đạo tâm

Quyết thành đấng Vô thượng

Cẩn thận chớ sanh nghi.

Như Lai đấng Tự Tại

Vô lượng kiếp khó gặp

Nếu sanh một niệm tin

Mau chứng đạo Vô thượng.

Giả sử trong mỗi niệm

Cúng dường vô lượng Phật

Chưa biết pháp chơn thật

Chẳng gọi là cúng dường.

Nếu nghe pháp như vậy

Chư Phật từ đây sanh

Dầu bị vô lượng khổ

Chẳng bỏ hạnh Bồ đề,

Một lần nghe đại trí

Pháp sở nhập của Phật

Khắp ở trong pháp giới

Thành tam thế Ðạo Sư,

Dầu tận vị lai tế

Ði khắp các cõi Phật

Chẳng cầu diệu pháp này

Trọn chẳng thành Bồ đề.

Chúng sanh vô thủy lại

Mãi lưu chuyển sanh tử

Chẳng rõ pháp chơn thật

Nên Chư Phật ra đời.

Các pháp chẳng thể hoại

Cũng không ai hoại được

Tự tại đại quang minh

Hiện khắp nơi thế gian.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19883)
Chân lý tự chứng (bản thân của Thực Tại) thì không phải một, không phải hai (bất nhị). Do năng lực tự chứng này mà (Thực Tại) là khả năng làm ích lợi bình đẳng cho tất cả kẻ khác...
(Xem: 29003)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 20718)
Chính tínniềm tin chân chính, chính xác, là sự tin hiểu chính thống, là sự tin tưởnghành trì ngay thẳng, là sự tin tưởng và nương tựa đúng đắn.
(Xem: 19470)
Để phát Tâm Bồ đề (The spirit of enlightenment; bodhicitta-sanskrit), bạn trước nhất phải phát triển tâm bình đẳng ( equanimity: tâm bình đẳng, tâm xả) đối với tất cả hữu - tình...
(Xem: 30551)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 36476)
Hòa Thượng Tịnh Không, chủ giảng những bài pháp thoại của tập sách này, hiện nay là một danh tăng của Phật giáo thế giới, người có công làm phát triển Phật giáo phương Tây...
(Xem: 33276)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35612)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 21014)
Từ xưa, Ấn Độ là một nước tôn giáo, triết họcthi ca, cho nên trào lưu tư tưởng phát sinh và nảy nởẤn Độ rất nhiều và dưới những hình thức khác nhau, nhưng tư trào rộng lớn hơn cả là tư trào Phật Giáo.
(Xem: 21947)
Phật giáo cũng như cái cây có ba phần: phần gốc, phần thân cây và phần ngọn bao gồm nhiều cành lá. Phần gốc là căn bản Phật giáo, phần thân cây là Tiểu Thừa Phật Giáo.
(Xem: 25286)
Các Phật tử, Bồ Tát ban sơ phát Bồ Đề tâm, ví như biển lớn lúc ban đầu từ từ sinh khởi, phải hiểu đó là chỗ chứa cho các châu báu như ý giá trị từ hạ trung thượng cho đến vô giá...
(Xem: 25820)
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM LUẬN, là một trong số rất nhiều tác phẩm của Bồ Tát THẾ THÂN thuyết minh, được các Thánh giả kết tập thành Tạng Luận trong Tam tạng Thánh giáo.
(Xem: 31296)
Đức Phật gọi là bực người tự nhiên, đem Nhất-Thiết-Chủng-Trí biết tất cả tự-tướng của các pháp sai khác; lìa tất cả điều chẳng lành; nhóm tất cả đìều lành; thường cầu lợi-ích cho tất cả chúng sinh, nên gọi là Phật.
(Xem: 18587)
Ðức Phật không chỉ nhận thức được sự thực tối cao, Ngài còn biểu lộ kiến thức cao cả của Ngài, kiến thức cao hơn tất cả kiến thức của các "Thần linh và Người".
(Xem: 25169)
Trí Khải (538-597), một trong những triết gia vĩ đại của Phật giáo Trung Hoa, đã đưa ra một cái nhìn quảng bác phi thường đối với pháp Phật với thiên tài của một môn đồ thành tín trên đường Đạo.
(Xem: 23804)
Luận này chuyên thuyết minh hạnh bố thí. Bố thí nghĩa là sự hy sinh triệt để; hy sinh được triệt để mới là bực đại trượng phu, nên luận này mệnh danh là ĐẠI TRƯỢNG PHU LUẬN...
(Xem: 28967)
"Học Phật Quần Nghi" là quyển sách giải thích những vấn đề nghi vấn của những người học Phật và tu Phật, chủ yếu là của Phật tử tại gia.
(Xem: 20899)
Hãy nôn ra lòng sân hận độc hại khỏi cõi lòng bạn. Sự sân hận đầu độc và bóp nghẹt tất những gì thiện mỹ nơi bạn. Tại sao bạn phải hành động chỉ vì con quái vật độc hại dấu mặt này?
(Xem: 31466)
Đức Phật ra đời và thuyết pháp “vì hạnh phúcan lạc cho số đông”. Những lời dạy của Ngài cho con người chỉ nhắm vào hai mục tiêu chính: khổ và diệt khổ.
(Xem: 25579)
Phương pháp tu tập thì nhiều, nhưng cốt yếu không ra ngoài Chỉ quán. Có Chỉ mới uốn dẹp được mê lầm, phiền não, có Quán mới nhận rõ pháp tánh chân như.
(Xem: 29746)
Bài pháp này căn cứ vào bản kinh Satta Sutta trong Saṃyutta Nikāya. Nhân dịp Tỳ Khưu Rādha hỏi Đức Phật về nghĩa chữ Satta (chúng sanh).
(Xem: 22548)
Trên thế giới đã có nhiều tôn giáo, tại sao lại còn cần thiết cho chúng ta có một đạo khác nữa gọi là Đạo Phật? Phải chăng có cái gì thật đặc sắc...
(Xem: 25749)
Ðạo Phật không phải chỉ là một siêu hình học, dù đạo Phật có đề cập đến những thắc mắc siêu hình. Siêu hình chỉ là một phương diện của đạo Phật...
(Xem: 23310)
Theo ý kiến thông thường được chấp nhận thì trong các kinh Phật, kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharma - pundarika - sùtra), thường được gọi là kinh Liên Hoa (1) là kinh tuyệt diệu nhất.
(Xem: 25769)
Học Phật là tìm biết vai trò của đạo Phật trong suốt lịch sử của sự sống nhân loại, những đóng góp của đạo Phật trong văn hóa nhân loại, những luồng sinh khíđạo Phật đã thổi vào...
(Xem: 23770)
Toàn bộ giáo lý đức Phật đều nhằm mục đích ''chuyển mê khai ngộ'' cho chúng sanh. Vì mê ngộ là gốc của khổ vui. Mê thì khổ, ngộ thì vui.
(Xem: 40632)
Tiểu thừa – cỗ xe nhỏ, và Ðại Thừa – cỗ xe lớn tuy xuất phát từ hai nhánh của Tiểu thừa là Ðại chúng bộ và Nhất thiết hữu bộ, có một số đặc tính khác nhau.
(Xem: 23366)
Chúng ta vui mừng và tự hào rằng, Phật giáo Việt Nam là một bộ phận quan trọng của di sản đạo đứcvăn hóa quý báu của dân tộc.
(Xem: 22491)
Tập cẩm nang này đúc kết tinh hoa những lời dạy của vị Thánh-tăng cận đại - Hòa-Thượng Quảng-Khâm (1892-1986). Là người đã giác ngộ, mỗi lời dạy của Ngài trực tiếp phá vỡ vô minh...
(Xem: 22112)
Hành giả Bồ Tát phải tích cực hành Bồ Tát hạnh, nghĩa là mỗi hành động, mỗi lời nói, mỗi ý niệm đều hướng về chúng sinh, vì lợi ích chúng sinh.
(Xem: 23526)
Khi chúng ta hiện diện ở đây, chúng ta phải thiết lập một động cơ đặc biệt: tâm giác ngộ (tâm bồ đề) nhằm hướng đến giác ngộ vì lợi ích của tất cả chúng sinh.
(Xem: 16984)
Con người khác với loài động vật ở chổ biết đặt vấn đề về giá trị của đời sống; sống như thế nào thì gọi là thiện là tốt hoặc ngược lại là ác là xấu?
(Xem: 23303)
“Nếu Phật tử cố ăn thịt. Tất cả thịt của mọi loài chúng sanh đều không được ăn. Luận về người ăn thịt thì mất lòng đại từ bi, dứt giống Phật tánh...
(Xem: 24348)
Đề kinh Kim cang gồm hai phần. Tên tiếng Phạn là Vajrachedikā Prajñāpāramitā, trong đó phần đầu là tính từ phẩm định cho từ theo sau.
(Xem: 41139)
Kinh Phạm Võngkinh đầu tiên trong Trường bộ kinh và qua toàn văn chúng ta cũng đủ hiểu giá trị của kinh này như thế nào.
(Xem: 19021)
Muni có nghĩa là một bậc tiên nhân, một bậc thánh nhân, một bậc hiền giả sống một mình trong rừng. Trong kinh Vệ Đà chữ muni tương đương với chữ rishi.
(Xem: 20515)
Bồ-tát (菩薩), nói cho đủ là Bồ-đề-tát-đỏa (菩提薩鬌), phiên âm tiếng Phạn là Bodhisattva. Bồ đề dịch là Giác ngộ; tát-đỏa dịch là chúng sanh.
(Xem: 27749)
Ðức Phật là một nhà cách mạng, ngài đã không thỏa mãn với những giáo điều cổ truyền bà la môn nên đã tự mình tìm ra một Ðạo lý mới.
(Xem: 38152)
Trúc Lâm Yên Tử là một phái Thiền mà người mở đường cho nó, Trần Thái Tông vừa là người khai sáng ra triều đại nhà Trần, một triều đại thịnh trị đặc biệt về mọi mặt...
(Xem: 34097)
Tiểu Bộ Kinh - Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
(Xem: 36819)
Thiện namthiện nữ, nay các người lãnh thọ giới pháp rồi thì phải tôn kính mà vâng giữ, không được vi phạm giới pháp cần phải phụng trì.
(Xem: 24037)
Quy mạng Lô Xá Na, Mười phương Kim Cương Phật. Ðảnh lễ đức Di Lạc, Sẽ hạ sanh thành Phật. Nay tụng ba tựu giới, Bồ Tát đều cùng nghe.
(Xem: 29239)
Tôi nghe như vầy: Một thời Thế-tôn, châu du giáo hóa các nước đến thành Quảng-nghiêm, ở nghỉ dưới cây Nhạc-âm, cùng với tám ngàn vị đại tỳ-kheo...
(Xem: 60196)
Bồ TátVô Tận Ý Khi bấy giờ chăm chỉ đứng lên Bèn trịch vai hữu một bên Chắp tay cung kính hướng lên Phật đài
(Xem: 27647)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phưởng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 68783)
Chúng sanh đây có bấy nhiêu Lắng tai nghe lấy những điều dạy răn Các ngươi trước lòng trần tục lắm Nên kiếp nầy chìm đắm sông mê
(Xem: 24555)
Một thuở nọ Thế Tôn an trụ Xá Vệ thành Kỳ Thụ viên trung Mục Liên mới đặng lục thông Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm luân.
(Xem: 24521)
Quyển Kinh Viên Giác tôi giảng khá lâu rồi, nay được Tăng Ni chép lại trình lên tôi duyệt qua. Ðọc lại quyển Kinh Viên Giác, tôi thấy đây là con mắt của người tu Thiền.
(Xem: 22747)
Kinh PHÁP BẢO ĐÀN là một tài liệu thiết yếu cho những người tu theo Thiền tông, bởi vì cốt tủy Thiền tông đều nằm gọn trong những lời dạy đơn giản bình dị của Lục Tổ.
(Xem: 26394)
Lăng-già (Lanka) là tên núi, núi này do sản xuất châu Lăng-già nên lấy tên châu mà gọi tên núi. Núi nằm tại biển Nam là chỗ ở của Dạ-xoa.
(Xem: 26576)
Kinh Kim Cang cũng có người đọc là Kim Cương. Kinh này do đức Phật nói, nguyên văn bằng chữ Phạn, sau truyền sang Trung Quốc được dịch ra chữ Hán.
(Xem: 20848)
Lư hương xạ nhiệt, Pháp-giới mông huân. Chư Phật hải hội tất diêu văn, Tùy xứ kiết tường vân
(Xem: 20092)
Nguyện đem lòng thành kính Gởi theo đám mây hương Phảng phất khắp mười phương Cúng dường ngôi Tam Bảo
(Xem: 27591)
Làm người Phật tử ở đời Đêm ngày tụng niệm những lời dạy khuyên Tám điều giác ngộ kinh truyền Ghi lòng tạc dạ tinh chuyên tu hành
(Xem: 46494)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 53605)
Kinh Pháp Hoabộ kinh Đại thừa được nhiều dịch giả phiên dịch, được nhiều học giả nghiên cứu chú giải, lại được lưu truyền sâu trong giới trí thức...
(Xem: 23637)
Con người bình thường không thể nào so sánh được với bậc Bồ Tát; chỉ có những kẻ phi thường xuất chúng mới tiến lên gần gũi đôi chút với trí huệ Bồ Tát.
(Xem: 21127)
Giá trị của tập sách này là diễn đạt được tiến trình lịch sử tư tưởng Phật giáo qua ba giai đoạn: Phật giáo nguyên thủy, Phật giáo các bộ phái, và Phật giáo Ðại thừa.
(Xem: 25625)
Phụng dịch theo bản đời Đường của Ngài Thiệt Xoa Nan Đà. Tham khảo các bản dịch đời Ngụy, Tống và bản dịch Anh Ngữ của Suzuki. - Dịch Giả: Thích Nữ Trí Hải
(Xem: 29298)
VIMALAKĪRTINIRDEŚA - SŪTRA - Kinh Duy Ma Cật Sở Thuyết - Đường Huyền Trang dịch - bản dịch Việt: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant