Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

11 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15413)
24. Phẩm Ðâu-Suất kệ tán

KINH HOA NGHIÊM 
Hán Dịch: Ðại-Sư Thật-Xoa-Nan-Ðà - Việt Dịch: HT Thích Trí Tịnh
Phật Học Viện quốc Tế Xuất Bản PL 2527 - 1983

 PHẨM ÐÂU SUẤT KỆ TÁN
THỨ HAI MƯƠI BỐN
(Hán bộ quyển hai mươi ba)

Lúc đó do thần lực của Ðức Phật, Mười Phương ngoài vạn Phật sát vi trần số thế giới, mỗi phương đều có một đại Bồ Tát cùng vạn Phật sát vi trần số Bồ Tát câu hội :

Kim Cang Tràng Bồ Tát từ Diệu Bửu thế giới của Ðức Phật Vô Tận Tràng; Kiên Cố Tràng Bồ Tát từ Diệu Lạc thế giới của Ðức Phật Phong Tràng; Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát từ Diệu Ngân thế giới của Ðức Phật Giải Thoát Tràng; Quang Minh Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim thế giới của Ðức Phật oai Nghi Tràng; Trí Tràng Bồ Tát từ Diệu Ma Ni thế giới của Ðức Phật Minh Tường Tràng; Bửu Tràng Bồ Tát từ Diệu Kim Cang thế giới của Ðức Phật Thường Tràng; Tinh Tấn Tràng Bồ Tát từ Diệu Ba Ðầu Ma thế giới của Ðức Phật Tối Thắng Tràng; Ly Cấu Tràng Bồ Tát từ Diệu Ưu Bát La thế giới của Ðức Phật Tự Tại Tràng; Tinh Tú Tràng Bồ Tát từ Diệu Chiên Ðàn thế giới của Ðức Phật Phạm Tràng; Pháp Tràng Bồ Tát từ Diệu Hương thế giới của Ðức Phật Quan Sát Tràng.

Chúng Bồ Tát khi đến trước Ðức Phật và đảnh lễ Phật xong, tùy theo phương của mình đến, đều hóa hiện tòa sư tử Diệu Bửu Tạng rồi ngồi kiết già trên đó.

Thân của chư Bồ Tát đều phóng trăm ngàn ức na do tha vô số quang minh thanh tịnh cùng đại nguyện rời lìa những lỗi ác mà phát khởi, hiển thị pháp tự tại thanh tịnh của tất cả Phật.

Bởi chư Bồ Tátnguyện lực có thế cứu hộ khắp tất cả chúng sanh, tất cả thế gian đều thích thấy. Ai thấy Bồ Tát đều được lợi ích được điều phục.

Chúng Bồ Tát này đều đã thành tựu vô lượng công đức. Những là đi khắp tất cả cõi Phật không chướng ngại, thấy pháp thân thanh tịnh không nương đỗ, dùng trí huệ thân hiện vô lượng thân, đến khắp Mười Phương phụng thờ Chư Phật, vào nơi vô lượng vô biên bất tư nghì pháp tự tại của Chư Phật, trụ nơi vô lượng môn Nhất thiết trí, dùng trí quang minh khéo rõ các pháp, ở trong các pháp được vô úy biện tài thuyết pháp vộ tận, dùng đại trí huệ khai môn tổng trì, huệ nhãn thanh tịnh thâm nhập pháp giới cảnh giới trí huệ không ngằn mé, rốt ráo thanh tịnh như hư không.

Tất cả Ðâu Suất Thiên cung trong thập phương thế giới đều có chư Bồ Tát đồng số lượng, đồng danh hiệu, thế giới và Chư Phật cũng đồng như nơi đây cả.

Bấy giờ đức Thế Tôn từ hai gối phóng trăm ngàn ức na do tha quang minh, chiếu khắp tất cả thế giới tận pháp giới hư không giới.

Chúng Bồ Tát ở các cõi kia đều thấy thần biến của Ðức Phật ở đây. Chúng Bồ Tát ở cõi đây đều thấy biến của tất cả Chư Phật kia.

Tất cả chúng Bồ Tát như vậy, cùng với đức Tỳ Lô Giá Na Như Lai, từ thuở xưa, đồng trồng căn lành tu Bồ Tát hạnh, đều đã ngộ nhập thậm thâm giải thoát tự tại của Chư Phật, được pháp giới thân bình đẳng, vào tất cả thế giớivô trụ, thấy vô lượng Phật đều qua kính thờ, trong một niệm đi khắp pháp giới tự tại vô ngại, tâm ý thanh tịnh như bửu châu vô giá, vô lượng vô số Chư Phật thường hộ niệm và đồng ban cho thần lực, đến nơi bờ rốt ráo đệ nhứt kia luôn dùng tịnh niệm trụ vô thượng giác, niệm niệm luôn vào chỗ Nhứt thiết trí, đem nhỏ vào lớn, đem lớn vào nhỏ đều tự tại, thông đạt vô ngại đã được Phật thân, cùng Phật đồng an trụ, được Nhứt thiết trí, từ Nhứt thiết trí mà sanh ra thân, đều có thể theo vào chỗ sở hành của tất cả Như Lai mà khai xiển vô lượng pháp môn trí huệ, đến bờ Kim Cang tràng đại trí kia, được Kim Cang định dứt các điều nghi hoặc, đã được tự tại thần thông của Chư Phật, vào khắp tất cả quốc độ mười phương, giáo hóa điều phục trăm ngàn muôn ức vô số chúng sanh, dầu không tham trước nơi tất cả số lượng mà có thể tu học thành tựu cứu cánh, phương tiện an lập các pháp.

Trăm ngàn ức na do tha bất khả thuyết vô lượng tạng công đức thanh tịnh vô tận như vậy, chúng Bồ Tát này đều được thành tựu.

Kim Cang Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai chẳng xuất thế

Cũng chẳng nhập Niết Bàn

Dùng sức bổn nguyện lớn

Thị hiện pháp tự tại.

Pháp này khó nghĩ bàn

Tâm không duyên đến được

Trí huệ đến bời kia

Mới thấy cảnh giới Phật.

Sắc thân chẳng phải Phật.

Âm thinh cũng chẳng phải

Nhưng chẳng lìa sắc, thinh

Thấy thần lực của Phật.

Trí kém chẳng biết được.

Cảnh giới thiệt của Phật

Tu hạnh thanh tịnh lâu

Mới thấy được cảnh Phật.

Chánh giác không chỗ lại

Ði cũng chẳng từ đâu

Sắc thân diệu thanh tịnh

Do thần lực hiển hiện.

Trong vô lượng thế giới

Thị hiện thân Như Lai

Nói rộng pháp vi diệu

Trong tâm không trụ trước.

Trí huệ không ngằn mé

Rõ thấu tất cả pháp

Vào khắp các pháp giới

Thị hiện sức tự tại.

Chúng sanh và các pháp

Rõ thấu đều vô ngại

Khắp hiện các sắc tượng

Cùng khắp tất cả cõi.

Muốn cầu Nhứt thiết trí

Chóng thành Vô Thượng Giác

Phải dùng tâm tịnh diệu

Tu tập hạnh Bồ đề.

Nếu ai thấy Như Lai

Oai thần lực như vậy.

Nơi đức Tối Thắng Tôn

Nên cúng dường chớ nghi.

Kiên Cố Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật tối thắng vô tỷ

Rất sâu bất khả thuyết

Vượt khỏi đường ngôn ngữ

Thanh tịnh như hư không.

Quán sát đấng Ðạo Sư

Sức tự tại thần thông

Ðã lìa nơi phân biệt.

Mà khiến phân biệt thấy.

Ðức Phật vì khai diễn

Pháp vi diệu thậm thâm

Vì do nhơn duyên ấy

Hiện thân vô tỷ này.

Ðây là chỗ Chư Phật

Ðại trí huệ sở hành

Nếu ai muốn biết rõ

Phải nên gần gũi Phật.

Ý nghiệp thường thanh tịnh

Cúng dường chư Như Lai

Trọn không lòng mỏi nhàm

Hay vào nơi Phật đạo.

Ðủ vô tận công đức

Trụ chắc tâm Bồ đề.

Do đây trừ lưới nghi

Quán Phật không nhàm mỏi.

Thông đại tất cả Pháp

Mới phải chơn Phật tử

Người này rõ biết được

Sức tự tại Chư Phật.

Trí quảng đại đã nói

Làm căn bổn các pháp

Nên sanh lòng hy vọng

Chí cầu Vô Thượng Giác.

Nếu ai tôn kính Phật

Nhớ báo đáp ơn Phật

Người đó chẳng xa lìa

Chỗ an trụ của Phật.

Ðâu có người trí huệ

Nơi Phật thường thấy nghe

Chẳng tu nguyện thanh tịnh

Nơi đường Phật đã đi.

Dũng Mãnh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Ví như mắt tỏ sáng

Ban ngày thấy hình sắc

Tâm thanh tịnh cũng vậy

Nhờ Phật lực thấy Phật.

Như dùng sức tinh tấn

Hay tột nguồn đáy biển

Trí lực cũng như vậy

Thấy được vô lượng Phật.

Ví như ruộng phì nhiêu

Gieo trồng tất tươi tốt

Tâm thanh tịnh như vậy

Xuất sanh các Phật pháp.

Như người được bửu tạng

Lìa hẳn khổ nghèo cùng

Bồ Tát được Phật pháp

Tâm ly cấu thanh tịnh.

Ví như thuốc Già đà

Tiêu được tất cả độc

Phật pháp dùng như vậy

Diệt các hoạn phiền não.

Chơn thiệt thiện tri thức

Hạng Như Lai ngợi khen

Vì do oai thần kia

Ðược nghe những Phật pháp.

Giả sử vô số kiếp

Của báu cúng dường Phật.

Chẳng biết Phật thiệt tướng

Cũng chẳng gọi cúng dường.

Vô lượng những hình sắc

Trang nghiêm nơi thân Phật.

Chẳng phải trong hình sắc

Mà thấy được Ðức Phật.

Như Lai Ðẳng Chánh Giác

Tịch nhiên hằng bất động

Có thể khắp hiện thân

Ðầy khắp mười phương cõi.

Ví như hư không giới

Bất sanh cũng bất diệt

Phật pháp cũng như vậy

Rốt ráo không sanh diệt

Quang Minh Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nhơn gian và Thiên thượng

Tất cả các thế giới

Khắp thấy đức Như Lai

Sắc thân diệu thanh tịnh.

Ví như một tâm niệm

Hay sanh các thứ tâm

Như vậy một Phật thân

Khắp hiện tất cả Phật.

Bồ đề không hai pháp

Cũng không có các tướng

Mà ở trong hai pháp

Hiện thân tướng trang nghiêm.

pháp tánh không tịch

Sanh khởi như huyễn hóa

Sở hành luôn vô tận

Ðạo Sư hiện như vậy.

Tam thế tất cả Phật

Pháp thân đều thanh tịnh

Tùy kia chỗ đáng độ

Khắp hiện diệu sắc thân.

Như Lai chẳng nghĩ rằng

Ta hiện thân như vậy

Tự nhiênthị hiện

Chưa từng có phân biệt.

Pháp giới không sai biệt.

Cũng không chỗ tựa nương

Mà ở trong thế gian

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng phải hóa

Cũng chẳng phải chẳng hóa

Nơi trong pháp không hóa

Thị hiện thân biến hóa

Chánh giác chẳng lường được

Ðồng pháp giới hư không

Sâu rộng không bờ đáy

Ðường ngôn ngữ tuyệt hẳn.

Như Lai khéo thông đạt

Tất cả xứ hành đạo

Pháp giới các quốc độ

Qua đến đều vô ngại.

Trí Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Nếu người tin thọ được

Nhứt thiết trí vô ngại

Tu tập hạnh Bồ đề

Tâm đó chẳng thể lường.

Trong tất cả quốc độ

Khắp hiện vô lượng thân

Mà thân không chỗ ở

Cũng chẳng trụ nơi pháp.

Mỗi mỗi chư Như Lai

Thần lực thị hiện thân

Bất tư nghì kiếp số

Tính đếm chẳng hết được.

Tam thế các chúng sanh

Trọn biết được số lượng

Việc thị hiện của Phật

Số lượng chẳng thể được.

Có lúc hiện một hai

Nhẫn đến vô lượng thân

Hiện khắp mười phương cõi

Thiệt ra không hai thứ.

Ví như trăng tròn sáng

Hiện khắp các dòng nước

Bóng hình dầu vô lượng

Mặt trăng vẫn không hai.

Trí vô ngại như vậy

Thành tựu bực Chánh Giác.

Hiện khắp tất cả cõi

Phật thể cũng không hai.

Chẳng một cũng chẳng hai.

Cũng chẳng phải vô lượng

Tùy chỗ đáng hóa độ

Thị hiện vô lượng thân.

Phật thân chẳng quá khứ

Cũng chẳng phải vị lai.

Một niệm hiện xuất sanh

Thành đạoNiết Bàn.

Hiện hình sắc như huyễn

Không sanh cũng không khởi

Phật thân cũng như vậy

Thị hiện không có sanh.

Bửu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Phật thân vốn vô lượng

Thiện hiện thân hữu lượng

Tùy chúng chỗ nân thấy

Ðạo Sư hiện như vậy.

Phật thân không nơi chỗ

Ðầy khắp tất cả chỗ

Như hư không vô biên

Khó nghĩ bàn như vậy.

Chẳng phải chỗ tâm duyên

Tâm chẳng khởi trong đó

Trong cảnh giới Chư Phật

Rốt ráo không sanh diệt.

Như mắt lòa xem thấy

Chẳng trong cũng chẳng ngoài

Thế gian thấy Chư Phật

Phải biết cũng như vậy.

Vì lợi ích chúng sanh.

Nên Phật hiện ra đời

Chúng sanh thấy có hiện

Thiệt thì không có hiện.

Chẳng thể dùng quốc độ

Ngày đêm mà thấy Phật

Năm tháng một sát na

Phải biết đều như vậy.

Chúng sanh nói như vậy

Ngày đó Phật thành đạo

Như Lai được Bồ đề.

Thiệt chẳng thuộc thời gian.

Như Lai lìa phân biệt

Rời thời gian, không gian

Tam thế chư Như Lai

Xuất hiện đều như vậy.

Ví như mặt trời sáng

Chẳng hiệp cùng đêm tối

Mà nói ngày đêm ấy

Phật pháp đều như vậy.

Tam thế tất cả kiếp

Chẳng cùng Như Lai hiệp

Mà nói tam thế Phật

Phật pháp đều như vậy.

Tinh tấn Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Tất cả các Ðạo Sư

Thân đồng nghĩa cũng đồng

Khắp cả mười phương cõi

Tùy nghithị hiện.

Quan sát đấng Mâu Ni.

Chỗ làm rất kỳ đặc.

Ðầy khắp cả pháp giới

Tất cả đều không thừa.

Phật thân chẳng ở trong

Cũng chẳng ở nơi ngoài

Thần lực nên hiển hiện

Ðạo Sư pháp như vậy.

Theo các loài chúng sanh.

Nghiệp đã họp đời trước

Những loại thân như vậy.

Thị hiện đều chẳng đồng.

Thân Chư Phật như vậy

Vô lượng chẳng đếm được

Chỉ trừ đấng Ðại Giác

Không ai nghĩ bàn được.

Như ngã nan tư kia

Tâm nghiệp chẳng đến được

Phật nan tư cũng vậy

Chẳng phải tâm nghiệp hiện.

Như quốc độ nan tư

Mà thấy tịnh trang nghiêm

Phật nan tư cũng vậy

Diệu tướng đều hiện đủ.

Ví như tất cả pháp

Do các duyên sanh khởi

Thấy Phật cũng như vậy

Tất nhờ ác thiện nghiệp.

Ví như châu như ý

Hay thoả mãn lòng chúng

Chư Phật pháp như vậy

Thỏa mãn tất cả nguyện.

Trong vô lượng quốc độ.

Ðạo Sư hiện ra đời

tùy theo nguyện lực

Ứng hiện khắp mười phương

Ly Cấu Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quan sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Như Lai không sở trụ

Mà trụ tất cả cõi

Tất cả cõi đều qua

Tất cả nơi đều thấy,

Phật tùy tâm chúng sanh

Hiện khắp tất cả thân

Thành đạo chuyển Pháp luân

Và cùng nhập Niết Bàn.

Chư Phật bất tư nghì

Ai tư nghì được Phật.

Ai thấy được Chánh Giác.

Ai hiện được tối thắng.

Tất cả pháp đều "Như"

Cảnh giới Phật cũng vậy.

Nhẫn đến không một pháp

Trong "Như" có sanh diệt.

Chúng sanh vọng phân biệt.

Là Phật là thế giới

Người liễu đạt pháp tánh

Không Phật không thế giới.

Như Lai khắp hiện tiền

Khiến chúng sanh tin mừng

Phật thể bất khả đắc.

Cũng lại không sở kiến.

Nếu được nơi thế gian

Trọn xa lìa chấp trước

Vô ngại lòng hoan hỷ

Nơi pháp được khai ngộ.

Thần lực tự tại hiện

Chính đây gọi là Phật

Trong tất cả thế giới

Tìm cầu trọn không có.

Nếu biết được như vậy

Tâm ý và các pháp

Thấy biết trọn tất cả

Chóng được thành Như Lai,

Trong ngôn ngữ hiển thị

Tất cả Phật tự tại

Chánh giác siêu ngôn ngữ

Giả mượn ngôn ngữ nói.

Pháp Tràng Bồ Tát thừa thần lực của Ðức Phật quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng :

Thà nên luôn thọ đủ

Tất cả khổ thế gian

Trọn chẳng xa Như Lai

Chẳng rời đấng Tự Tại.

Nếu có những chúng sanh

Chưa phát tâm Bồ đề

Ðược nghe danh hiệu Phật

Quyết định thành Chánh Giác.

Nếu có bực trí huệ

Một niệm phát đạo tâm

Quyết thành đấng Vô thượng

Cẩn thận chớ sanh nghi.

Như Lai đấng Tự Tại

Vô lượng kiếp khó gặp

Nếu sanh một niệm tin

Mau chứng đạo Vô thượng.

Giả sử trong mỗi niệm

Cúng dường vô lượng Phật

Chưa biết pháp chơn thật

Chẳng gọi là cúng dường.

Nếu nghe pháp như vậy

Chư Phật từ đây sanh

Dầu bị vô lượng khổ

Chẳng bỏ hạnh Bồ đề,

Một lần nghe đại trí

Pháp sở nhập của Phật

Khắp ở trong pháp giới

Thành tam thế Ðạo Sư,

Dầu tận vị lai tế

Ði khắp các cõi Phật

Chẳng cầu diệu pháp này

Trọn chẳng thành Bồ đề.

Chúng sanh vô thủy lại

Mãi lưu chuyển sanh tử

Chẳng rõ pháp chơn thật

Nên Chư Phật ra đời.

Các pháp chẳng thể hoại

Cũng không ai hoại được

Tự tại đại quang minh

Hiện khắp nơi thế gian.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29914)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21799)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22265)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23644)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20467)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20075)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21965)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24783)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19021)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24796)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24016)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27795)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26559)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21382)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38182)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18452)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20011)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19071)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23210)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22847)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22958)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20657)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18741)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20190)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19975)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34212)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16445)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16948)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39301)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26123)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20133)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24100)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29180)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 30999)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20711)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26290)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23360)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19841)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24705)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15166)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15852)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23933)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant