Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 4

12 Tháng Ba 201100:00(Xem: 13521)
Phần 4

KINH BÁCH DỤ
Thích Nữ Như Huyền
Phật Học Viện Quốc Tế Xuất Bản 1996


31. Mua lừa

Thuở xưa có một số tín đồ của đạo Bà La Môn cử hành cuộc đại hội, họ cần dùng nhiều chén bạc. Vị giáo chủ của họ bảo đệ tử lên chợ mời một người thợ đồ sứ về làm. Ðệ tử vâng lệnh đi tìm thợ. Ði giữa đường bọn họ gặp người thợ đang dắt một con lừa, trên lưng chở rất nhiều đồ sứ đem ra chợ bán. Lừa sẩy chơn té quỵ xuống, bao nhiêu đồ sứ trên lưng đều rớt xuống đất và bể tan tành. Người thợ đồ sứ buồn rầu khóc lóc mãi. Bọn họ thấy thế lấy làm lạ hỏi rằng:

- Tại sao anh khóc buồn bã thế?

Người thợ trả lời:

- Tài nào tôi không khóc, bao nhiêu đồ sứ công phu làm trong một năm, nay định chở đem ra chợ bán nào ngờ con lừa bị sảy chân, trong khoảng khắc bể nát cả, như thế không đáng rầu rĩ ư!

Bọn họ nghe thế mừng thầm và nghĩ rằng:

- Con lừa nầy giỏi quá, công khó người thợ làm một năm, chỉ trong nháy mắt nó có thể làm tiêu tan hết.

Bây giờ bọn họ mới thương lượng với người thợ để mua con lừa. Người thợ đang tức giận muốn tống cổ nó đi, nghe có người mua nó, vội vã bán ngay.

Bọn họ cưỡi lừa về ra mắt giáo chủ, vị giáo chủ hỏi rằng:

- Tại sao không tìm thỉnh người thợ đồ sứ, mà lại mua lừa đem về?

Bọn đệ tử trả lời:

- Bản lảnh con lừa nầy, lớn hơn người thợ đồ sứ, vì người thợ làm trong một năm mới thành một số đồ, mà chỉ trong giây phút một mình nó, nó phá tan.

Vị giáo chủ lắc đầu lia lịa và nói rằng: 

- Sao các con dại dột thế? Con lừa nầy, trong khoảnh khắc có thể làm bề bao nhiêu đồ sứ, nhưng dù trải trăm năm, nó cũng không thể làm ra được một cái.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ở đời có nhiều người thọ ân của người khác giúp đỡ, chẳng những họ không thù đáp lại, mà thường hay trả oán. Hạng người vong ân bội nghĩa như thế, chúng ta không nên gần gũi, vì chỉ có hại chứ không ích lợi gì.

32. Trôm vàng

Thuở xưa có hai người thương gia cùng ở một chỗ, một người buôn vàng, một người buôn bông vải. Có người đến mua vàng, để vàng vào lửa thử xem thiệt hay giả. Người buôn bông vải kia lén trộm một cục, sợ thấy, bèn đem giấu trong bông. Vàng đang cháy nóng đỏ làm cho bao nhiêu bông vải cháy sạch sành sanh, công việv bại lộ. Người kia chẳng những không trộm vàng được, mà còn bị cháy hết bao nhiêu là bông vải.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ngoại đạo ăn cắp giáo lý của đạo Phật đem làm của mình, nhưng vì họ không rõ nguyên lý, không khéo xử dụng, chẳng những không hiểu Phật pháp, việc làm không đi đến đâu, mà lại làm cho giáo pháp của họ bị pha trộn. Chung kết cơ mưu bị bại lộ, làm trò cười cho kẻ bàng quan.

33. Chặt cây tìm trái

Thuở xưa trong vườn một ông vua, có trồng một thứ trái cây rất tốt, tàng nhánh sum xê, sanh trái ngon ngọt lạ thường, không chỗ nào có.

Ngày nọ có người khách ngoại quốc đến chơi, vua đưa đi xem cây ấy và nói rằng:

- Cây nầy sanh một thứ trái ngon vô song, chẳng nơi nào có cả.

Khách hỏi:

- Quả thật có trái ngon, vậy cho tôi một trái ăn thử được không?

Vua bằng lòng, bèn gọi người đốn cây ngã xuống để tìm trái, nhưng tìm không được trái nào. Sau đó, vua báo người đem cây đã chặt trồng lại, rồi tìm đủ biện pháp, cũng không thể nào làm cho nó đâm chồi nẫy tược như xưa. Cây ấy chết tuyệt, không còn sanh trái nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Ðức Thích Tôn đã từng chỉ cho chúng ta công đức trì giới, giống như cây đại thụ, có thể sanh các thứ trái thần thông, trí tuệ, từ bi, thiền định ngon lành. Chúng ta muốn có những thứ trái cây ấy, thì trước tiên phải trì giới tu hành, dùng nhiều công đức pháp lành bón tươi, mới mong kết quả tốt đẹp hoàn toàn. Nhưng có một ít người không hiểu phương pháp ấy, buông lung hủy phạm giới luật oai nghi, mà còn mong cầu thần thông, định, huệ, khác nào người chặt cây tìm trái như trên, chẳng những trái không tìm được, mà cây quí từ nay đã chết khô. Hạng người hành động như thế thật đáng thương xót.

34. Thâu ngắn đuờng đi

Thuở xưa có một thôn cách kinh thành một trăm dặm, nơi ấy có một cái giếng nước rất trong và ngon ngọt, lạ thường. Vua hạ lệnh cho dân làng, mỗi ngày phải chở nước về kinh thành cho vua uống.

Dân làng ngày ngày tới lui mệt mỏi không chịu được, bèn rủ nhau trốn đến phương xa. Việc nầy thôn trưởng biết được, mới triệu tập một cuộc đại hội thôn dân, vị thôn trưởng đứng ra tuyên bố:

- Các anh em chớ đi đâu hết, tôi sẽ yêu cầu nhà vua thâu ngắn con đường một trăm dặm thành sáu mươi dậm tức khắc. Các anh em đi lại sẽ gần hơn, không nổi mệt mỏi như trước.

Hội nghị bế mạc, vị thôn trưởng vội vã vào kinh yêu cầu vua như thế. Vua phê chuẩn lời thỉnh cầu, và hạ lệnh cho sở lục lộ thâu ngắn con đường một trăm dặm còn sáu mươi dặm. Dân làng được tin ấy đều vui mừng và tự cảm thấy gần hơn trước. Từ đấy họ càng tin tưởng lời vua, họ đồng lòng tỏ không dời đi đâu cả. 

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời phát tâm tu học chánh pháp mong cầu thoát ly sanh tử, luân hồi, nhưng vì thời gian tu học dài dăng dẳng, nên càng thấy mỏi mệt, nửa đường thối tám không muốn tiến tới.

Ðức Như Lai có đủ phương tiện, đem pháp nhất thừa phương tiện nói ba thừa, khiến cho hàng căn tánh kém cỏi, trí huệ cạn gần, nghe xong cho là Phật pháp dễ tu, dễ chứng, mới mạnh mẻ nổ lực tiến tu pháp lành công đúc, hầu thoát ly sanh tử luân hồi. Sau khi bọn họ chứng quả vị tiểu thừa xong, Phật trở lại chỉ trích họ. Ngài thuyết minh: Phật pháp xưa nay chỉ có nhứt thừa chớ không có hai hay ba thừa, nghĩa là: "Sự thật chỉ có một, hể có hai cái tương đối thì không phài là chơn". Bây giờ bọn họ càng tin tưởng lời Phật, có thể hồi tiểu quả hướng đến đại thừa, tin thế không nghi, an nhiên tiến tu đạo đại thừa Bồ Tát.

35. Thấy bóng trong gương

Thuở xưa có một người rất nghèo khổ, mắc nợ quá nhiều, không có biện pháp để trả nợ, chỉ còn có cách là đi trốn.

Ngày nọ, y đi đến cánh đồng bao la bát ngát, chợt thấy một cái rương, bèn mở ra xem thử, thấy đầy một rương ngọc ngà, châu báu, có đậy một miếng kiếng lên trên. Bây giờ y vui mừng không xiết, bèn thò tay vào lấy những của báu ấy. Nhưng y thấy trong rương hiện ra một người (tức là bóng của y) có vẻ dọa nạt y, y hoảng sợ dừng tay lại, trong tâm lo sợ không an, bèn nói với người trong gương:

- Ta cho là trong cái rương trong nầy, không có phương hướng, tưởng đâu là không có người, nào dè thấy có người trong đó, quái lạ chưa?

Nói xong y vội vàng chạy đi nơi khác.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường bị vô lượng phiền não ràng buộc, làm cho khốn đốn, khổ nảo, không có phúc đức, duyên lành, lại thường bị sống chết quay cuồng "ma vuông, trái chủ" áp bức khổ sở, nên muốn cầu giải thoát khỏi vòng thống khổ, đau thươngtu học Phật pháp.

Bọn họ có công vun bồi cỏi phúc giống lành, dụ như cái rương đầy của báu, rồi lại thường bị "thân kiến ngã chấp" làm mờ, cho nên ở trong vô thường, vô ngã vọng chấp có ngã thường còn. "Thân kiến", "ngã chấp" dụ như bóng hiện trong gương, bọn họ lầm cho là chân thật, do đây mà không thể tu hành thiền định, đạo phẩm, chứng thành công đức vô lậu. Hành vi của bọn họ cùng với cử chỉ của người đã đến rương báu mà không lấy được vật gì, đồng nhau không khác.

36. Lầm móc con mắt

Thuở xưa có một người tu trên núi, học được pháp thuật, có thể khám phá tất cả ngọc ngà, châu báu chôn dưới đất lâu năm. Chuyện nầy thấu đến tai vua, vua rất mừng rỡ, bảo quần thần rằng:

- Ta muốn mời nhà nghệ thuật ấy ở luôn trong nước để giúp ta tìm của báu đã bị chôn vùi, nước chúng ta sẽ trở nên đại phú cường tức khắc.

Bây giờ có vị đại thần lảnh sứ mạng đi tìm nhà nghệ thuật. Vị đại thần quả nhiên tìm được người ấy, nhưng không chịu thỉnh về nước, mà lại móc cặp mắt của người, đem về dâng cho vua và nói:

- Hạ thần đã móc mắt của nhà nghệ thuật rồi, họ sẽ không thể đi khỏi nước được.

- Vua nghe xong lấy làm bất mãn nói rằng:

- Ngươi thật là dại dột, sở dĩ ta muốn thỉnh người là vì người có cặp mắt, có thể khám phá được của báu bị mai táng. Nay ngươi hủy hoại cặp mắt của người rồi thì người ấy còn dùng vào việc gì được nữa!

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật giáo do nhận thấy các bậc đại đức cao tăng khắc khổ thanh tu trong rừng núi, phi thường cung kính rước về nhà cúng dường, không biết rằng làm thể chỉ ngăn ngại sự tu khắc khổ thanh đạm của các ngài, thậm chí làm cho các ngài hủy phá giới hạnh, lui sụt pháp lành, không thể thành công đắc quả.

Phật tử tại gia thường hay mắc bệnh mủ quáng và lầm lớn. Hộ pháp không biết pháp, cúng dường không đúng pháp hoặc đem tình đời làm lem ố giới, định thanh cao của các bậc đại đức xuất gia, làm thế mình và người đều bị hại, gây nên tội lỗi không vừa.

37. Giết trâu

Xưa có một người nuôi 250 con trâu, thường thả ra đồng ăn cỏ.

Một hôm, có con cọp vồ lấy một con ăn thịt. Người kia thấy thế, tự nghĩ thầm: "Trâu ta mất một con, không đụ số, ta còn dùng bầy trâu đây làm gì?" bèn đuổi cả bầy trâu xuông hố, chúng chết tuyệt không còn lấy một con.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Phật tử xuất gia thọ trì "Giới cụ túc" hai trăm năm mươi rất hoàn hảo. Sau đó bất cẩn lỡ phạm một điều, đã không biết xấu hổ, ăn năn, sám hối cho trở lại thanh tịnh như xưa; mà lại lầm tưởng: "Ta đã phá một giới rồi, thì giới hạnh đã kém khuyết, dù có ăn năn giữ kỹ các giới cũng chẳng ích gì". Rồi từ đây ngang nhiên phạm giới không biết kiêng sợ, bỏ cả giới luật không hành trì. Người tu hành như thế cùng với người giết trâu như kia đều là hạng ngu si đáng thương cả.

38. Bảo nước đừng chảy

Thuở xưa có một người đi đường rất khát nước, xem thấy bên đường có cái hang, giòng suối từ trong ấy chảy ra nước trong leo lẻo, kế bên có cái thùng hứng nước đầy tràn. Người kia bèn kê miệng uống. Sau khi uống đở khát rồi, y chỉ cái thùng và nói:

- Ta uống đở khát rồi, vậy nước ơi! Ðừng chảy ra nữa.

Nhưng nước vẫn y nhiên chảy mãi không ngừng. Người kia tức mình quá, đứng bên cái thùng chữi rủa om sòm. Mọi người thấy thế cười và trách anh ta rằng:

- Anh cần gì làm thế, hãy lánh đi nơi khác đi, hà tất phải bảo nước đừng chảy nữa.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời thường say đắm trong biển sanh tử tham ái, uống nước ngủ dục tanh hôi, đôi khi cũng cảm thấy chán chê, ước mong con ma ngủ dục lạc đừng đến quấy rầy, nhưng nào được như ý. Muốn thế ta cần phải đề phòng các giác quan, tự kiểm thảo lấy mình cho cẩn thận: Tạm đừng dính líu duyên trần, ý đừng vọng tưởng sự thế. Chớ nếu chẳng dụng công xá bỏ bợn nhợ nơi lòng, mà chỉ mong muốn ngăn cảnh ngủ dục bên ngoài đừng đến quấy nhiểu, thì chẳng những không thể ngàn được miếng mồi ngủ dục (I), mà lại hằng bị nó lôi cuốn vào đường trụy lạc đau thương, mãi quay cuồng trong hố sâu tội lỗi, chẳng hy vọng ngày nào giải thoát được phiền não, mê lầm. Hành động như thế chỉ luống công vô ích

(I) Ngủ dục: Tài, sắc, danh, ăn ,ngủ; hoặc là sắc, hương, thinh, vị, xúc, cảnh giới đây thường thường làm cho con người điên đảo, mê hoặc.

39. Sơn tường

Thuở xưa có một người, y đến chơi nhà người bạn, thầy vách tường nhà bạn sơn bóng loáng, ráo khô, sạch sẽ, mới hỏi rằng:

- Anh dùnh thứ chi sơn quét vách tường đẹp thế?

Người bạn trả lời:

- Tôi dùng cám trộn với bùn và nước.

Người kia làm tường: Dùng cám mà còn tốt như vậy, nếu dùng nguyên lúa trộn với bùn mà sơn tường, thì chắc tốt hơn thế nữa.

Y bèn trở về nhà, dùng rất nhiều lúa trộn với bùn sơn lên vách. Kết quả chẳng những hoang phí một số lúa mà còn làm cho vách tường trở nên chỗ lồi, chỗ lõm không bằng, nhiều nơi sứt mẻ.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Một số người hiều lầm Phật pháp, hoặc tự cho mình là thông minh, tu bướng theo ức kiến của mình, rồi xa chánh pháp, thường thường mắc bệnh khổ công tu hành mà chỉ tổn hại không ích. Thí như phàm phu nghe Thánh nhân thuyết pháp rằng: Tu các pháp lành, sau khi chết sẽ được sanh thiên, hoặc được giải thoát; rồi họ tự lầm lộn giết chết thân mình mong được sanh thiên hưởng phước báo. Kết quả chỉ luống hủy thân, đối với sự tu hành không được chi cả. Họ với người kia đều là hạng ngu si.

40. Người sói đầu tìm thuốc.

Thuở xưa có một người đầu sói không có một sợi tóc, về tuyết đông lạnh vô cùng, mùa hạ nóng không thể tả, lại bị muỗi mòng bu cắn rất là đau đớn. Chẳng nghe đồn có vị lương y có thể trị hết bệnh sói và bất cứ bệnh gì, khó trị cách mấy ông cũng đều trị lành.

Người bèn đến nơi thưa hỏi:

- Tôi có bệnh sói đầu rất đau đớn, nghe đồn ngài có thể trị lành bệnh tôi, cúi xin thương xót chữa cho tôi khỏi bệnh. 

Lập tức vị lương y lột nón của mình ra đưa đầu sói cho xem và nói: 

- Thấy chăng, ta tự mắc bệnh ấy và đau khổ vô cùng. Giả sử ta có thể trị được bệnh sói, thì ta đã tự chữa cho ta khỏi bệnh rồi.

** Chuyện nầy tỉ dụ: Người đời mắc chứng bệnh: Sanh, già, bệnh, chết rất khổ não; muốn cầu đạo trường sanh bất tử mà không chịu đến với Phật, Bồ tát là những bậc Thánh nhân siêu trần để cầu học đạo thoát ly, mà trở lại tự mình mù quáng, đến bốn ngoại đạo thỉnh cầu, dầu biết bọn ngoại đạo tự mình vẫn bị trôi lăn trong vòng sanh tử, luân hồi, không có pháp giải thoát, làm sao cứu được người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11646)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11971)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11122)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11360)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12077)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12571)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10775)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17999)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11738)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9960)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10184)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12361)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15356)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11256)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14339)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12119)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15381)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12013)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12425)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11196)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12097)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10627)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12567)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13180)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14851)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12700)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16588)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19679)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13118)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12676)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12274)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11866)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10910)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13546)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11964)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11853)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11647)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12776)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14532)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12626)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15671)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13636)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12914)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18027)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11181)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9088)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12192)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13063)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10323)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12206)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15326)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16618)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12230)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11493)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14281)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19717)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14161)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24621)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10702)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant