Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

11. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

22 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9049)
11. Phẩm Ðầy Ðủ Năm Pháp

KINH BÁT CHU TAM MUỘI
Ðời Tùy Tam Tạng, Khất Ða và Cấp Ða
Việt dịch: HT Thích Minh Lễ

Quyển Thứ Ba
Phẩm Thứ Mười Một - Ðầy Ðủ Năm Pháp

Khi đó Bồ tát Hiền Hộ rời chỗ ngồi đứng dậy sửa sang y phục trịch áo bày vai mặt gối mặt quỳ chấm đất cung kính chấp tay thưa Phật:

Bạch Thế Tôn! Cúi xin ngài và chư tỳ kheo tăng ngày mai vào giờ độ ngọ quang lâm đến nhà con vì thương xót chúng sanh và con xin nhận sự cúng dường nầy.

Đức Thế Tôn im lặng nhận lời Hiền Hộ. Hiền Hộ biết Phật đã nhận lời làm lễ đầu chấm sát chân Phật, đi nhiễu theo chiều mặt ba vòng và lui ra. Ông lại đến chỗ tỳ khoe ni Ma ha ba xà ba đề làm lễ và thưa rằng:

Cúi xin tôn giảni chúng thương xót con sáng mai xin đến nhận chút cúng dường mọn.

Tỳ kheo ni Ma ha ba xà ba đề lặng lẽ nhận lời. Hiền Hộ biết rồi làm lễ lui ra, xong ông tới nói với chàng ly xa Bảo đức:

Nầy Bảo Đức! Ông đến nhà, ông hãy chuyễn dùm lời mời của tôi với tất cả hàng bà con quyến thuộc bạn bè quen biết của ông và các cư sĩ cho đến các vị vừa đến từ thành Vương xá hay các nơi khác thành ấp, thôn xóm qua dự pháp hội nầy. Xin ông nói với họ rằng: Xin nhận bữa cơm tại nhà tôi vào ngày mai.

Khi đó chàng Ly xa Bảo Đức nhận lời Hiền Hộ mới nói với các cư sĩ, bà con quyến thuộc v.v... đang dự pháp hội rằng:

Xin quý vị biết cho Bồ tát Hiền Hộ nhờ tôi mời quý vị: Ngày mai vào giờ ngọ xin các vị đến nhận sự cúng dường mọn.

Khi đó Bồ tát Hiền Hộ, chàng Ly Xa Bảo Đức và phú hộ thương chủ Dà Ha Cấp Đa, Na La Đạt Da Ma Nạp, phú hộ Thủy Tiên cùng với tất cả quyến thuộc bạn bè quen biết v.v... đảnh lễ Phật đầu chấm sát đấtlui về nhà Bồ tát Hiền Hộ. Các vị ấy đến nhà giúp Hiền Hộ sử sang buổi cúng dường, ngay trong đêm đó sai gia nhân lo liệu các món ăn thượng diệu sắc hương mỹ vị đầy đủ trăm vật, lại lo cả các món ăn ngon sạch dồi dào để thí cho các người nghèo đói từ các nước xa xôi đến, món ăn thí ra đồng với đại chúng không khác. Tại sao thế? Là vì hễ là Bồ tát thì tâm các ngài không có ưa ghét không dám kinh khi kẻ khác, đối với chúng sanh đều một lòng bình đẳng.

Khi ấy Ta bà thế giới chủ Đại Phạm Thiên vương, Đao lợi thiên vương Thích Đề Hoàn Nhơn, bốn vị đại thiên vương như Đề Đầu Lại Tra v.v... và thiên tử Thiện Đức cùng với các quyến thuộc đều hiện thân làm người đến tán trợ cho Hiền Hộ vì các vị ấy muốn giúp ông ta sớm thành tựu quả báo Bồ đề.

Còn Hiền Hộ và và con bạn bè quen biết v.v... quét dọn nhà cửa, treo giăng cờ xí đầy cả đại lộ, đường cái, đường hẻm trong đại thành Vương Xá cùng với nhiều vật trang trí tô điểm rực rỡ, rải hoa thơm đầy mặt đất rồi lại đốt lên các loại danh hương đệ nhứt để cúng dường. Hiền Hộ lo trang trí thành Vương Xá nhà cửa và sửa soạn món ăn ngon xong sáng hôm sau mới cùng bà con qua đến nơi Thế Tôn ngự cúi đầu đảnh lễ và thưa:

Bạch Thế Tôn! Con đã sửa soạn xong, xin ngài biết là phải lúc.

Khi đó vào sáng sớm, đức Thế Tôn vì nhận lời Hiền Hộ nên đấp y mang bát cùng với vô lượng tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người vây quanh hai bên cùng đi đến nhà Bồ tát Hiền Hộ. Khi đó Bồ tát Hiền Hộ, mới nghĩ: Nhà cửa mình bé nhỏ không thể dung chứa số đại chúng quá đông nhiều mong nhờ oai linh đức Thế Tôn gia hộ làm cho nhà con rộng lớn đều trở thành lưu ly, tất cả nhân dân trong nội thành đều thấy rõ cả và đại chúng trời người được tùy ý thọ dụng không có chi thiếu sót, thật là điều sung sướng cho con.

Đức Thế Tôn hiểu tâm niệm của Hiền Hộ liền dụng thần lực làm cho nhà của ông trở thành rộng rãi các vật dụng đều trở thành lưu ly, cũng làm cho tất cả nhân dân trong thành đều được thấy rõ ràng.

Đức Thế Tôn vào nhà Hiền Hộ an tường ngồi trên sàn tòa và cho phép tất cả tỳ kheo, tỳ kheo ni, cư sĩ nam, cư sĩ nữ, đại chúng trời người tùy theo bộ loại tuần tự mà ngồi. Hiền Hộ, chàng thanh niên Ly Xa Bảo Đức, thương chủ phú hộ cư sĩ Dà Ha Cấp Đa, Na La Đạt Đa đã thấy Thế Tônbốn bộ chúng trời người đều ngồi an tường xong. Khi đó Hiền Hộ đích thân mang món ăn hết sức ngon quý dâng lên Thế Tôn, đức Thế Tôn thọ xong sau đó ông mới đem dâng bốn bộ chúng và tất cả đại chúng trời người các món ăn thơm tho quý đều để các vị tuỳ ý thọ dụng đầy đủ. Sau khi bửa cơm vừa dứt các ngài rửa tay súc miệng, rửa bát mang vào mình xong. Hiền Hộ mới đặt một ghế nhỏ thấp trước mặt Thế Tôn, cúi đầu làm lễ ngài sau đó lui ngồi trên ấy nhứt tâm chiêm ngưỡng ngài. Đức Thế Tôn mới vì Bồ tát Hiền Hộ, chàng Ly Xa Bảo Đức, thương chủ cư sĩ Dà Ha Cấp Đa, Na la Đạt ĐA Ma Nạp v.v... cho đến bốn bộ chúng trời người ngài ứng cơ nói pháp làm cho tất cả được mở mang hiểu biết, an ủi vỗ về để họ vui vẻ. Sau đó Thế Tôn cùng các tỳ kheo, tỳ kheo ni, đại chúng trời người trở về tinh xá.

Sau buổi cơm xong, Bồ tát Hiền Hộ cùng với quyến thuộc, bạn bè quen biết và trăm ngàn đại chúng vây quanh hai bên đồng qua đến nơi Thế Tôn cung kính lạy ngài rồi lui qua một bên quỳ gối chắp tay thưa:

Bạch Thế Tôn! Đại Bồ tát đầy đủ mấy pháp có thể chứng tam muội hiện tiền nầy?

Phật dạy:

Nầy Hiền Hộ! Nếu Bồ tát nào thành tựu được năm pháp như sau sẽ thành tựu được tam muội hiện tiền. Một là đủ nhẫn lực cao thâm trừ tận các dục lạc, hai là thật không gì tận không có chỗ tận, ba là vốn không có tạp loạn và sự diệt trừ các tạp loạn, bốn là vốn không có nhơ bợn và sự diệt trừ nhơ bợn, năm là vốn không có trần và sự xa lìa trần lao. Hiền Hộ! Đó là đại Bồ tát thành tựu viên mãn vô sanh nên đắc tam muội hiện tiền này.

Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp Bồ tát thành tựu sẽ đắc tam muội. Một là nhàm chán cực độ các hữu không thọ các hành, hai là sanh bất cứ nơi nào không hề quên tâm Bồ đề, ba là sanh ra nơi đâu cũng được gặp Phật Thế Tôn, bốn là không hề đam mê các ấm giới, nhập, năm là không đắm say nơi các việc dục lạc.

Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp: một là luôn luôn nghĩ nhớ tâm không giới hạn, hai là luôn luôn khéo thể nhập thiền định suy gẫm, ba là phân tách gẫm nghĩ tất cả các pháp, bốn là đối với tất cả chúng sanh không có tâm tranh cải, năm là luôn luôn dùng pháp tứ nhiếp hóa chúng sanh. Nếu Bồ tát thành tựu năm pháp nầy sẽ thành tựu tam muội.

Nầy Hiền Hộ! Lại có năm pháp: một là đối với tất cả chúng sanh luôn rải tâm từ bao khắp, hai là lúc nào cũng ghi nhớ tu hành thánh hạnh, ba là thường thực hành hạnh nhẫn dù gặp kẻ phá giới lòng vẫn tôn kính, bốn là không khoe tài trước Hoà thượng A Xà Lê, năm là ở bất cứ nơi nào cũng không có lòng khinh chê kẻ khác. Bồ tát nào đầy đủ cả năm sẽ thành tựu tam muội.

Lại có năm pháp khác: một là luôn luôn y theo thánh giáo tu hành như lời dạy, hai là ý nghiệp trong sạch, diệt trừ sự ác của thân khẩu nghiệp, ba là giới hạnh trong sạch dứt trừ kiến thức, bốn là thường cầu mong học rộng nghe nhiều đức tin sâu dày về thiện nghiệp, năm là thường nghĩ nhớ đến Như Lai, Ứng cúng, Đẳng chánh giác. Hoàn mãn được năm pháp nầy Bồ tát sẽ thành tựu tam muội hiện tiền.

Lại có năm pháp khác Bồ tát thực hành có thể thành tựu tam muội hiện tiền: một là thường bố thí rộng lớn không có tâm keo kiết, đối với các bậc sa môn, bà la môn, người nghèo khó, cô đơn, ăn xin, bố thí cho lòng không tiếc rẻ, những vật quý báu giá trị như món ăn ngon ngọt, y phục tốt đẹp, phòng nhà đệ nhứt bên trong đầy đủ đồ đạc trang trí đèn nến hương hoa, phàm những gì thọ dụng đều tận tâm thí xả. Dù hằng bố thí nhưng không mong cầu phước báo chỉ vì lòng thương xót tất cả, không mảy may nghi hoặc đă thí cả rồi sau cũng không hối tiếc. Hai là thường làm thí chủ mở cuộc thí pháp vĩ đại, đó là những pháp đệ nhứt tối thượng, tối thắng, tối diệu, tối tinh, lúc tu hành pháp thí vĩ đại nầy có khả năng phát ra tất cả sự hùng biện vô ngại văn nghĩa rõ rànglớp lang liên tục không dứt khoảng, an trụ trong những pháp do Như Lai dạy, thành tựu sức nhẫn sâu xa dù bị kẻ khác phỉ báng mạ lỵ đánh đập cũng không sân hận cũng không sợ hãi tâm hằng an nhẫn vui vẻ. Ba là nếu lúc được nghe môn tam muội nầy hết lòng tin nhận ghi chép, đọc tụng, suy gẫm nghĩa lý giảng rộng phân tích ý nghĩa cho kẻ khác hiểu để cho diệu pháp nầy được tồn tại lâu dài trên thế gian khỏi rơi vào cảnh trở thành "kho tàng bí mật" để rồi chánh pháp lần đi đến chỗ hoại diệt. Bốn là không mang tâm ganh tỵ tránh xa phiền năo xả bỏ những sự trói buộc, dứt hẳn trần cấu không tự khen mình mà cũng không chê kẻ khác. Năm là hằng kính tin tôn trọng chư Phật kính sợ bực Thầy, hổ thẹn với kẻ quen biết, xót thương trẻ thơ ngây, dù chỉ mang chút ân nhỏ cũng nghĩ đền đáp nồng hậu huống gì ơn nặng lại dễ quên đâu, lời lẽ lúc nào cũng thành thật không có nói dối.

Nầy Hiền Hộ! Đại Bồ tát hoàn măn năm pháp sẽ có thể đắc tam muội nầy.

Đức Thế Tôn muốn lập lại lời trên nên nói kệ rằng: 

Nghe pháp sâu xa lòng thích ưa 
Xa lìa tất cả thân đời sau 
Chí tâm hồi hướng Phật Bồ đề 
Nếu được như vậy sẽ đắc định. 
Không dùng các luận theo ngoại đạo 
Lý thuyết của họ cũng không nghe. 
Lìa hẳn năm dục trong thế gian 
Được như vậy sẽ chứng tam muội 
Giữ giới trong sạch hành Phạm hạnh 
Sanh bất cứ chỗ không mê gái 
Cực nhàm năm dục, thật con Phật 
Được như vậy sẽ chứng tam muội
Thường thí vĩ đại không cầu báo 
Cũng không cưu mang lòng hối tiếc
Một phen xả thí duyên khó gặp 
Lòng chuyên nhiếp niệm nhớ chư Phật 
Lúc thương chúng sanh, hành bố thí 
Quyết định hết nghi, không đổi thay 
Giữ tâm hòa nhã bố thí ra 
Nếu được như vậy, chứng tam muội 
Như làm thí chủ bố thí tài 
Nào có kiêu ngạo, tâm keo kiết 
Lúc bố thí lòng khắp vui mừng 
Nếu được như thế chứng tam muội
Nếu làm thí chủ thí chánh pháp 
Khéo léo trình bày nghĩa lý kinh 
Lại hiểu được pháp sâu vắng lặng 
Được như vậy rồi chứng tam muội
An trụ trong các pháp sâu xa 
Dẻo dai chịu đựng, không ganh tỵ 
Dù bị đánh chửi không hề giận 
Được như vậy chắc chứng định nầy. 
Hoặc ai nghe được kinh điển nầy 
Biên chép đọc tụng giảng nói hay 
Lòng muốn pháp còn, lợi thế gian 
Nếu được như vậy chắc đắc định. 
Đối tất cả pháp không lẫn tiếc 
Không cầu lợi dưỡng và tiếng đồn 
Một lòng thiết tha tăng dòng Phật 
Được điều như vậy, định chắc chứng. 
Xa lìa ngủ nghỉ và phiền não 
Bỏ lòng ganh tỵ và phá khuấy 
Không tự khen mình và chê người 
Diệt được ngã tướng đắc tam muội
Chánh tín các Phật và pháp tăng 
Tâm hằng thành thật không giả dối 
Không quên đền đáp các ân sâu 
Người nầy sẽ mau chứng tam muội 
Nếu nói thành thật không dối láo 
Hể làm gì ra không thối thất 
Dù làm tuy ít quả lại nhiều 
Kẻ nầy chứng định không chướng ngại
Nếu ai thành tựu đủ pháp nầy 
Giữ giới trong sạch nhớ ân nhân 
Họ đắc Bồ đề còn không khó 
Nói chi môn định thâm diệu nầy. 
Khi ấy Thế Tôn mới bảo Bồ tát Hiền Hộ:

Ta nhớ khi xưa cách đây vô lượng vô số kiếp, lại qua vô lượng vô số kiếp, ban sơ hết từ nơi Phật Nhiên Đăng nghe được môn tam muội nầy. Nghe rồi lại tu chứng được, thấy các Như Lai thường hiện ra trước mặt từ đó về sau trải qua vô lượng vô số các đức Phật đều được lãnh thọ kinh nầy, tu hành cúng dường. Lúc đó đức Phật Thế Tôn thọ ký cho ta rằng: Nầy thiện nam! Ông trong đời tương lai sẽ đặng làm Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni Như Lai, Ứng cúng, Chánh biến tri, Minh hành túc, Thiện thệ, Thế gian giải, Vô thượng sĩ, Điều ngự trượng phu, Thiên nhân sư, Phật Thế Tôn. Nầy Hiền Hộ! Các ông cũng nên chuyên tâm suy gẫm tu tập chánh pháp như vậy không phải thuộc về lãnh vực thấy biết của phàm phu, tịch tịnh sâu xa, chỗ diệt hết các tướng. Học xong như thế đời vị lai tự nhiên thành tựu trí giác vô thượng không khó khăn gì không có khác biệt với ta. Các ông nên biết nếu có ai an trụ tam muội nầy tự nhiên sẽ được gần kề bên trí giác vô thượng.

Khi ấy Thế Tôn nói bày kệ để lập lại lời trên:

Khi xưa ta gặp Phật Nhiên Đăng 
Thấy rồi liền được tam ma đề 
Từ đó luôn gặp các Như Lai 
Đầy đủ công đức tiếng đồn xa. 
Ông nên tích tập các công đức 
Nhứt tâm chuyên niệm liền sẽ thành 
Nếu ai hành được pháp thế nầy 
Sẽ được đạo Bồ tát vô thượng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11506)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11832)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11012)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11217)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 11949)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12416)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10629)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17830)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11600)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9832)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10082)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12250)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15221)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11091)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14186)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 11959)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15152)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11856)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12302)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11068)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 11970)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10491)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12441)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13020)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14651)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12532)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16373)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19411)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 12994)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12544)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12147)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11693)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10779)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13365)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11848)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11722)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11488)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12622)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14362)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12479)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15516)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13460)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12750)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9743)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17851)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11038)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 8958)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12067)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 12910)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10201)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12071)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15150)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16478)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12092)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11354)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14112)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19496)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14035)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24374)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10573)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant