Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 28: Thận Trọng Với Ý Thức

24 Tháng Ba 201100:00(Xem: 9841)
Chương 28: Thận Trọng Với Ý Thức

KINH BỐN MƯƠI HAI CHƯƠNG 
HT Thích Phước Tịnh Giảng Giải

CHƯƠNG 28
THẬN TRỌNG VỚI Ý THỨC

 

Thưa đại chúng,
Thận Trọng Với Ý Thứcchủ đề của bài Kinh ngắn mà chúng ta sẽ đi vào.

A. CHÁNH VĂN. 

Văn bản chữ Hán của chương Kinh hai mươi tám nầy rất là ngắn, chúng ta có thể viết theo thể thơ, mỗi câu chỉ có năm chữ.

Phật ngôn: “Thận vật tín nhữ ý, nhữ ý bất khả tín. Thận vật dữ sắc hội. Sắc hội tức họa sanh. Đắc A La Hán dĩ, nãi khả tín nhữ ý.”

Đức Phật dạy: “Cẩn thận chớ có tin ý của ông. Ý của ông không đáng tin. Cẩn thận chớ gần gũi với sắc đẹp. Gần gũi với sắc đẹp chắc tai họa phát sinh. Khi nào chứng quả A La Hán rồi mới có thể tin ý của ông.”

A. ĐẠI Ý.

Đại ý của chương Kinh hai mươi tám là: “Hãy cẩn thận với ý thức của chính ta.”

C. NỘI DUNG.

1. Đi vào các tầng tâm, ý, thức.

Bài kinh tuy rất ngắn, nhưng rất sâu sắc và Đức Phật xác định một điều rất căn bản là đừng bao giờ tin vào ý thức của chúng ta. Ý thức thì thầm dẫn dắt chúng ta vào con đường khổ lụy. Hãy nhận diện sự sinh khởi của ý thức và đừng bao giờ để nó dẫn dắt. Chúng ta giỏi hay không là do nhờ biết nhận diện sự có mặt của nó, và khi nhận diện được thì cắt được sức mạnh dẫn dắt của nó liền nếu không thì bị nó đưa vào nẻo tiêu cực, đi rất xa thì muộn mất rồi.

Trong mười bức tranh chăn trâu có bức họa thứ tư vẽ chú mục đồng bắt được trâu rồi nhưng con trâu chạy phía trước, chú cầm sợi dây mũi kéo lại nhưng không được, bị con trâu lôi chạy theo rất tội nghiệp. Ý thức của chúng ta cũng như vậy ta luôn bị nó dẫn đi rất xa; nó dẫn chúng ta vào những nẻo chông gai, hiểm trở là những nẻo làm cho chúng ta sầu khổ bất an. Nếu tu dở chúng ta không có khả năng dẫn nó mà chỉ đi theo sau đuôi vì bị lôi đi. Cố nhiên, ta chưa bao giờ nhận diện được nó, dừng được nó; chưa bao giờ làm chủ nó, và đi mãi hết kiếp tử sinh nầy cho đến kiếp khác chìm nổi trong luân hồi.

Thưa đại chúng, chương Kinh nầy có thể chia làm các phần như: Định danh các từ ý, thức và tâm. Sự sinh khởi của ý thức. Thế giới hình thành từ tâm thức chúng sanh.

Điều quan trọng ở đây không phải là những định nghĩa trong văn học, trong chữ nghĩachúng ta quay lại nhận diện những diễn tiến nơi chính mình, bên trong mình mới có khả năng điều phục, làm chủ được ý.

Như chúng ta đã biết trong mười hai nhân duyên có hai từ rất gần với chúng ta là danh và sắc.

– Sắc là phần cạn thuộc vật lý. Danh ẩn tàng bên trong, tức là phần của cảm thọ, tưởng, và năng lực vận động của ý thức gọi là hành và phần cuối của ý thức.

“Cảm thọ” nầy là cảm nhận được làm bằng hai phần; vừa sắc và vừa ý thức. Như khi ăn một món ăn ngon chúng tacảm giác hạnh phúc, thích thú đó là do cảm thọ từ thân, từ vị giác hình thành. Dĩ nhiên cảm thọ từ thân đưa đến thì hạnh phúc không cao. Nhưng nếu quí vị uống một tách trà trong một không gian mà thơ văn tuôn tràn, niềm hứng thú bộc phát bạn bè cười nói hợp cung bậc tâm thức thì ý thức cùng với vị giác ta tiếp nhận làm thành trạng thái hạnh phúc. Cho nên cảm thọ là loại phối hợp từ thân, từ tâm hành và đôi khi cùng với ý thức mới hình thành cảm thọ.

– Tưởng có nhiều phần: tưởng tượng thô nó được sinh ra từ kho lưu trữ của tiềm thức chúng ta nhìn thấy rất dễ. Quá khứ chúng ta nghe tiếng hay nhìn hay xúc chạm với hiện thực, cảnh trí trước mắt mà hình thành những hạt giống trong tâm thức và những hình ảnh ta hồi ức lại gọi là tưởng tượng thô.

Đôi khi không cần cảnh trí trước mắt mà có tưởng gọi là đơn thuần tưởng. Và có những cái tưởng không cần cảnh tiếp xúc trước mắt như khi một buổi tối nào buồn đời nằm tưởng lại sự việc quá khứ. Có khi có những tưởng tượng rất mạnh làm cho hình ảnh ngày xưa hiện ra rõ rệt, và chúng ta hay làm chuyện nầy để lấp khoảng trống của lòng; khi buồn, khi cô đơn, khi đối diện với nỗi khổ. Tất cả những hình ảnh, âm thanh gợi lại đều thuộc về dạng tưởng. Tưởng tinh tế hơn được dệt bằng đối thoại hoặc độc thoại, và tưởng nầy cũng dính vào hành và thức. Xin quí vị lưu ý.

Nếu chúng ta định nghĩa hành là sự vận động, là sự di chuyển của ý thức luôn xao động thì vận động của ý thức gọi là hành.

– Thức là gì? Ta có thể gọi nó là những nhận thức. Hoặc thức là những hạt giống, những ký ức của quá khứ ta cất chứa. Nó là những hạt giống từ đáy lòng của mình và chúng tiềm phục bên trong rất sâu (chủng tử) là thức. Ta có thể gọi thức có hai tầng: tầng biểu hiện là nhận thức, tầng tiềm phục là những hạt mầm rất mịn, rất tinh tế nằm ngủ sâu trong ta.

Bằng cái nhìn của thiền tập giản dị hóa tính phức tạp của từ ngữ chúng ta hiểu như thế để qui chiếu vào hai từ dùng ở đây là ý và ý thức. Ý chỉ cho phần cảm thọ, chỉ cho phần tưởng. Thức chỉ hành và cũng chỉ cho hạt giống ngủ ngầm bên trong của tâm thức. Ý và thức liên hệ rất chặt chẽ hay nói rộng hơn bốn uẩn thọ, tưởng, hành, thức chỉ là những danh từ để gọi mà thôi. Thực tế tất cả đều chỉ cho trạng thái của tâm thức còn lậu hoặc, ô nhiễm, nghĩa là còn hạt giống để sinh trở lại trong cõi tử sinh.

Và một điều rất quan trọng chúng ta cần chia xẻ là “tâm”. Vậy tâm là gì?

Chúng ta thường gọi những tầng cảm thọ, tư duy, độc thoại thì thầm của ta, cùng những vận động rất mịn như sóng lăn tăn trên miền ý thức, và những hạt mầm tiềm phục rất sâu chờ cơ hội khởi lên là ý và thức.

Trên mặt cạn nhìn, nhận diện chúng ta gọi nó là ý. Ở mặt sâu thầm lặng như những lượn sóng ngầm không nhận diện được chúng ta gọi là thức. Vậy còn tâm nằm ở đâu?

Thưa, chữ tâm nầy được Phật giáo xử dụng rất nhiều, từ Phật giáo Nguyên Thủy đến Phật giáo Đại Thừa, hay Thiền tông hầu như toàn bộ kinh điển đều nói về tâm. Tâm bao trùm những thọ, tưởng, hành, thức nhưng tâm không phải là bốn uẩn nầy, vậy tâm là gì? Tâm là trạng thái tỉnh sáng nhận biết, không có tiếng nói thì thầm, không phải hạt giống của sự vui buồn. Nó hiện tiền; là trạng thái nhận biết sáng tỏ, rỡ ràng ngay bây giờ và ở đây thì gọi là Tâm.

Thưa quí vị, tất cả những gì chúng ta từ ý thức mà nhận biết được, đều nằm ở trạng thái thô hoặc tinh tế không phải là tâm; mà tâm là nhận biết tất cả những sự nhận biết thô hoặc tế ấy. Tâm là chủ của cái nhận biết, là tự thân cái nhận biết. Cái nhận biết nầy nó mênh mông, tỏa sáng, lặng lẽ, vô ngôn. Nó được đặt cho nhiều tên gọi khác nhau như Chân tâm, Phật tánh, Bản Lai diện mục, Niết Bàn... nhưng chúng ta đừng lạc vào ngôn ngữ, chữ nghĩa mà hãy khéo quay lại nơi chính mình để thể nghiệm trạng thái nhận biết ngay nơi đây, tức khắc ở giây phút nầy. Ấy là tâm ta. Và tâm chính là ta, cho nên khi ta hỏi tại sao ta không biết tâm, hỏi như vậy là sai. Vì khi chúng ta biết nó thì nó trở thành cái bị nhận biết rồi.

Trong Kinh Duy Ma Cật Đức Phật hỏi Văn Thù: “Văn Thù à, nếu người ta nói thầy là Văn Thù thật có đúng không? Văn Thù đáp: “Dạ, bạch Thế Tôn không đúng, tại vì nếu nói có Văn Thù thật thì sẽ có Văn Thù giả, Văn ThùVăn Thù thôi.”

Cho nên nói đây là tâm của ta thì sai mất rồi. Tâm là tâm chứ không phải của ta. Một khi cái gì mà của ta thì nó đã trở thành đối tượng, là bị nhận biết, là sở hữu cho nên mới có chữ “của” đi vào. Chúng ta phải loại trừ chữ của, phải loại trừ câu hỏi tại sao tôi không biết tâm? Chúng ta chỉ thầm liễu tri (hiểu, nhận) chúng ta có tâm. Cái nhận biết tỉnh sáng vô ngôn chính là tâm. Thế thôi.

Tất cả những gì bị nhận biết là đối tượng của tâm, và tâm là chủ thể nhận biết. Tâm là không gian mênh mông thấy hiện tượng của thọ, tưởng, hành thức đang vận hành. Nó là tự thể trong lặng, rạng ngời đang chiếu sáng nhận diện tất cả các đối tượng kia.

Chúng ta tu là loại trừ là tịnh hóa các tầng thọ, tưởng, hành, thức. Những tầng nầy còn có mặt và ô nhiễmchúng ta còn bị nó dẫn dắt đi, loại trừ tịnh hóa được tất cả là làm cho nghiệp thức mình sạch gọi là người đạt được “Bạch tịnh thức,” tức chuyển thức thành Trí.

Và tôi lập lại một lần nữa xin quí vị lưu ý; tầng cạn nổi trên bề mặt là Ý, tầng chìm khó nhận biết, tinh tế hơn là Thức, cuối cùng bao trùm luôn cả ý và thức là khả năng tĩnh tại, sáng tỏ nhận biết luôn có mặt đó là Tâm.

Như vậy Tâm là tự thể nhận biết sáng chói hiện tiền.
Tâm, tâm, tâm, nan khả tầm.
Khoan thời biến pháp giới,
Trách giã bất dung châm.

Tạm dịch:

Tâm, tâm, tâm, khó thể tìm.
Rộng thời trùm pháp giới,
Hẹp không dung mũi kim.

Có nghĩa là tâm quá khứ, tâm hiện tại, tâm tương lai không thể tìm được. Rộng thì bao trùm khắp pháp giới, hẹp thì không để được trên đầu mũi kim. Đây là những câu thơ của Tuệ Trung Thượng Sĩ. Và là ngôn ngữ của người xưa diễn đạt trạng thái tâm.

2. Sự sinh khởi của ý thứccon đường dẫn dắt của nó.

Sự sinh khởi của ý thức bao gồm sinh khởi chủ ýsinh khởi không chủ ý, và thường được biểu hiện dưới hai dạng: tích cựctiêu cực.

Mỗi khi chúng ta muốn hướng tâm vào con đường thực tập, muốn làm cho đời sống có phẩm chất, hạnh phúc ngày càng nhiều, đó là cách mình tự sinh khởi ý thức tích cực.

Dĩ nhiên, có những lúc tâm thức chúng ta lạc vào trạng thái buồn nản, bất an... Những lúc ấy chúng ta có thể chọn một điều gì đó để làm cho ý thức ta hướng về nẻo tích cực, làm cho đời sống mình hưng phấn.

Có hai cách để chúng ta tu tập: mượn phương tiện vận động của cơ thể làm cho tâm thức ta hưng phấn. Khi cơ thể vận động tâm dễ yên, tức là khi cơ thể vận động thì tâm thức ta chịu tác động sinh lý làm cho những tâm hành tiêu cực có cơ hội được đào thải và thanh lọc. Nếu tình trạng tiêu cực của tâm hành khởi phát thường xuyên mà ta không trị liệu bằng cách vận động hình hài thì chắc chắn người ấy sẽ bị năng lượng tiêu cực đè nặng tâm thức đưa đến tình trạng trầm cảm. Cho nên sinh khởi chủ ýchúng ta phát khởi một ý thức dựng mình dậy, để làm cho đời sống vươn lên, hưng phấn. Ta gọi là khởi ý tích cực bằng con đường vận động của cơ thể.

Cách thứ hai, ta khởi ý tích cực từ bên trong của cảm thọtâm hành. Đọc những trang sách nuôi dưỡng tâm hồn làm cho lòng mình khởi phát ý niệm thương yêu, nhân ái, cảm thông. Học tập để mở rộng tri thức, hiểu biết...

Cao hơn nữa là con đường thiền tập chánh niệmchúng ta đang đi vào. Tức là nhận biết những cảm thọtâm hành đang sinh khởi, đang có mặt trong ta. Đây là cách tu tập sâu sắc nhất.

Ngược lại, khi ta có những buồn phiền, sầu khổ nổi lên trấn ngự, chúng ta lại khởi lên ý rất tiêu cực như nằm hồi tưởng lại những quá khứ xưa, những kỷ niệm đau buồn đã từng tàn hại thân tâm, cũng là loại khởi ý có chủ động. Những điều nầy do ta gợi lên và có khuynh hướng nuôi lớn ý thức theo chiều hướng tiêu cực do chính mình dựng lên rồi quay ngược lại nhận chìm, giết chết mình.

Có những trường hợp ý thức sinh khởi không chủ ý vì những hạt giống chúng ta cất chứa trong tiềm thức được tích tụ rất sâu nên tự động sinh khởi dẫn dắt chúng ta đi theo nó. Và cũng trong trường hợp nầy, khi mà tâm thức chúng ta rất hiền thiện, cả một đời huân tập thiện nghiệp sâu dày nên mỗi lần sinh khởi thì ý thức sinh khởi những điều rất tốt lành. Ta gọi là dù không chủ ý nhưng mỗi lần sinh khởiý thức sinh khởi theo chiều hướng tích cực.

Cũng từ sự sinh khởi không chủ ý nầy, khi mà trong tâm thức chúng ta đầy những hạt mầm xấu thì mỗi lần sinh khởi đều luôn khởi theo chiều hướng tiêu cực. Nghĩa là trong đáy lòng chúng ta niềm tiêu cực rất nhiều nên khi ta nhìn, nghe, tiếp xúc bất cứ một đối tượng nào dù có tốt đẹp, hay giỏi, dễ thương đến đâu thì tuy không chủ ý nhưng từ ý thức chúng ta vẫn sinh khởi niệm ghen ghét, đố kỵ... rất là tiêu cực. Thế nên, chúng ta phải rất cẩn thận nhận diện tâm hành mình để thấy kho lưu trữ của ta hạt giống gì có mặt. Sự tiến bộ của người tu có được là khi người ấy có khả năng nhận diện tâm hành mình để chuyển hóa.

Thưa đại chúng, thông thường chúng ta nhận biết sự sinh khởi của cảm thọý thức rất chậm. Tu chưa giỏi thì đợi đến khi khổ đau, bất an, sầu não tràn đầy mới bắt đầu giác ngộ, mới vội vàng thực tập. Trong khi đó người tu giỏi thì một niệm thoáng khởi là nhận diện được. Chúng ta giỏi hay dở ở chỗ khéo nhận diện được ý niệm vừa khởi; từng ý niệm một tích cực hay tiêu cực trong tâm thức vừa nẩy mầm là ta liền nhận diện được thì phàm hay Thánh khác nhau cũng chỗ đó mà thôi. Tuy nhiên rất khó cho ta làm được điều nầy, vì đó là con đường quay vào bên trong không hương sắc, không được người suy tôn, sùng mộ, và chắc chắn ta thầm lặng tự làm cho chính mình, không mong cầu ai biết đến. Những gì bên ngoài ta làm thành tựu rất dễ, nhưng quay vào trong là chúng ta phải loại bỏ bản ngã, kiêu căng, hợm hĩnh...và thực tập cần mẫn mà không cần sự nhận biết của mọi người nên chắc chắn đây là con đường rất khó cho chúng ta đi.

Cá tính của mỗi con người cũng làm cho chúng ta khó nhận biết sự sinh khởi của ý thức. Có những người mà tâm họ luôn hướng ngoại, phù động, sôi nổi thì chuyện ngồi một mình đơn độc, lặng lẽ để nhận diện những tâm hành của mình khó có thể làm được. Cho nên tùy theo cá tính từng người mà sự thực tập quay lại nhìn những khởi niệm của mình đặt ra cho chúng ta nhiều thử thách khó khăn. Tùy năng lực hay niềm đam mê thực tập của chúng ta mạnh hay yếu để làm khởi phát khả năng quay về nhận diện được sự sinh khởi của ý thức. Nếu một đời tu mà không làm được chuyện nầy, cứ để cho ý thức mặc tình đưa dẫn vào nẻo tiêu cực là ta đã thả trôi cuộc đời vào kiếp tử sinh. Và tất nhiên, hậu quả gần của nó là các cảm thọ buồn phiền, giận hờn, bất an... luôn có mặt. Cho nên Đức Phật dạy: “Hãy cẩn thận, đừng tin vào ý của ông, vì ý của ông không thể tin được.” là như vậy.

Thưa quí vị, trong câu cuối đoạn Kinh ngắn nầy Đức Phật nhấn mạnh đến sức hủy hoại của sắc dục. “Hãy cẩn thận với sắc, vì gần với sắc thì sinh tai họa.”

Khi ý thức của chúng ta còn nhiều ái dục, lậu nghiệp rất dày chúng ta chưa khống chế được, chưa làm chủ, loại trừ và thịnh hóa được mà lại tạo điều kiện để tiếp cận cho ý thức ái nhiễm, dục nhiễm phát sinh thì chúng ta đã tự mình giết chết đời mình. Môi trường bên ngoài sẽ tạo cho tâm thức ta phát sinh sự dính mắc. Là những người tu phải rất cẩn trọng trong sự giao tiếp với đời.

3. Thế giới hình thành bằng tâm thức.

Ý thức hay tâm thức cá nhân chúng ta đầu tiên hình thành tính cách của con người, hình thành môi trường và hoàn cảnh con người đó sống. Tính cách con người có thể sửa đổi vì do từ thói quen mà làm nên tính cách, và cũng từ tính cách làm nên phẩm chất con người. Do vậy, chúng ta có thể thực tập mọi điều để trở thành thói quen, chúng ta có thể sửa được tính cáchxây dựng được phẩm chất con người từ ý thức chủ động của chúng ta.

Ví dụ trong lãnh vực nghệ thuật, chúng ta có năng khiếu về âm nhạc nhưng nếu không có môi trường để học hỏi, luyện tập để đào tạo bản thân mình thì không thể trở thành nhạc sĩ hay ca sĩ giỏi được. Sự thực tập nầy đòi hỏi phải trải qua thời gian dài và từ từ trở thành tính cách của ta. Với thời gian trình độ thưởng lãm âm nhạc của ta ngày càng cao hơn. Rồi sẽ đến lúc trong một buổi hòa tấu có cả trăm nhạc công, nhưng tiếng đàn nào lạc điệu là ta biết ngay. Đó là do trình độ của ta đã được huân tập thành bản chất nghệ thuật cho chính mình.

Dĩ nhiên, quá khứ đã có hạt giống âm nhạc hay nghệ sĩ, rồi qua bề dày của tháng ngày nuôi dưỡng, tập luyện của hiện tại nên ta trở thành một nghệ sĩ và chất nghệ sĩ trong ta đã trở thành phẩm chất con người. Lúc bấy giờ ta trở thành một người khác biệt hơn với những người chung quanh và là một con người đầy phẩm chất trong cuộc sống.

Ví dụ cụ thể nhất là tất cả những điều tôi chia xẻ hôm nay đây đều được làm nên bằng sự tập tành của ý thức tôi trong quá khứ. Và ý thức của tôi đã chủ động để có thể làm nên tính cách của tôi như hiện tại. Có những người được nuôi dưỡngtrưởng thành trong một tu viện, già lam; sau đó do một nhân duyên thúc đẩy họ rời đời sống tu tập về ẩn cư giữa chốn đời thường. Thế nhưng nhìn vào cuộc sống người ấy tự nhiên người chung quanh cũng nhận ra đây là chỗ ở của một người tu. Tính cách của họ tự nhiên thể hiện ra đời sống bên ngoài. Đó là ở mức độ cạn.

Bước vào lãnh vực tâm thức sâu hơn, các cảnh giới hữu hình, vô hình cũng được hình thành bằng tâm thức. Thiên nhơn, A Tu La, Địa ngục... đều hình thành từ tâm thức. Trong cộng đồng nhân loại, chúng ta mang hình hài như nhau nhưng đừng nghĩ rằng chúng ta giống nhau trong tâm thức. Có những con người hiện diện trong cuộc đời sinh hoạt như chúng ta nhưng tâm thức họ còn rất thấp trong cảnh giới của loài động vật. Tâm thức họ chất đầy thù hận và niềm sân giận rất lớn. Tuy hình thức là người nhưng tâm họ không phải là người. Dĩ nhiên khi tâm thức như vậy thì sự run rủi của nghiệp thức sẽ đẩy người ấy vào một cộng đồng giống như họ để chung sống. Năng lượng từ bên trong phát tiết có khuynh hướng chiêu cảm nhau, hút nhau hội tụ thành một cộng đồng sống với nhau, để cùng chung chịu một nghiệp cảm như nhau. Cho nên cảnh giới trên cuộc đời tuy cùng là con người nhưng tâm thức hoàn toàn khác biệt, và cảm nhận niềm vui nỗi buồn, hạnh phúc hay bất hạnh cũng khác biệt.

Chúng ta chưa cần tu tập nhiều, chỉ cần làm cho tâm thức mình mỗi khi khởi ý đều khởi một thiện niệm thì cuộc sống đã an lạc rồi. Ông bà chúng ta ngày xưa cách nay mấy thế hệ; lúc sống không hề biết niệm một câu Phật nhưng sống rất thuần thiện, thảnh thơi. Khi sửa soạn chết các cụ biết trước ngày mất và ra đi rất nhẹ nhàng như đi vào giấc ngủ.

4. “Tùy xứ tác chủ...”

Thưa đại chúng, căn bản của sự thực tập là khi chúng ta muốn làm một việc gì hãy huân tập từng ngày khả năng nhận diện ý niệm sinh khởi của chúng ta. Nếu là những ý niệm thiện đem lại hạnh phúc cho mình và cho người thì ta cho nó sinh khởi. Và những ý niệm nào sinh khởi theo hướng tiêu cực thì chúng ta phải nhìn rõ và khéo loại trừ. Chúng ta phải thực tập điều căn bản như vậy.

Nếu mỗi ngày mà chúng ta tiếp xúc mười người mà để cho ý thức của mình thù ghét cả mười thì chính chúng ta chuốc lấy nỗi niềm bất hạnh. Không gì hạnh phúc bằng ra ngoài gặp ai cũng đáng cho chúng ta trân quí, kính trọngyêu thương. Tất cả đều do cách khởi tâm và hành xử của chúng ta.

Tóm lại, ở mức độ cạn, nỗi niềm hạnh phúc hay bất hạnh, khổ đau hay lạc thú tất cả đều do cách hành xử của chúng ta. Cho nên chúng ta phải gọi mời ý thức thiện lành của ta sinh khởi.

Ở cấp độ sâu xa chúng ta hãy làm một việc như Tổ Lâm Tế đã dạy: “Tùy xứ tác chủ, lập xứ đắc chân.” nghĩa là “Đến chỗ nào hay ở trong mọi trường hợp nào, ngay nơi đây là phải làm chủ, phải sống được trong vùng đất chân thật, với con người thật của ta.” Chúng ta hãy nắm lấy câu nầy mà thực tập suốt đời tu, và chúng ta phải thực tập ngay tức thì. Không chờ đợi bởi vì chờ đợi cơ hội, trông mong ngày mai thì cơ hội, ngày mai không đến bao giờ. Chúng ta thực hiện ngay bây giờ thì sẽ làm được mọi lúc, nếu không thì không bao giờ có thì giờ riêng cho chúng ta thực tập.

Chúng ta phải hứa với lòng dù bất cứ hoàn cảnh nào, mọi nơi, mọi lúc tức là mỗi phút giây của đời sống lúc nào chúng ta cũng phải quay trở lại để tự làm chủ mình; lúc nào cũng sống trong sự nhận biết. Hãy nhận biết đơn thuần những gì ta tiếp xúc bằng mắt, tai, mũi, lưỡi... Và những thì thầm, độc thoại, đối thoại... đang khởi hiện trong tầng sâu tâm thức chúng ta. Lúc nào cũng an trú trong vùng trời chân thật của tự tâm “sáng tỏ vô ngôn” không lạc vào vùng ý thức đến đi, còn mất đổi thay. Chúng ta thể nhập vào trạng thái tĩnh tại, sáng tỏ nhận biết hiện tiền nầy viên mãn thì chứng được quả A La Hán. Hay nói theo ngôn ngữ nhà Thiền là lồng lộng đi ra khỏi ba cõi, đoạn đứt tử sinh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11595)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 11908)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11072)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11315)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12043)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12534)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10737)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 17940)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11698)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9916)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10148)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12318)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15304)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11211)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14295)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12053)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15276)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 11968)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12376)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11142)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12040)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10573)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12529)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13126)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14754)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12622)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16497)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19585)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13072)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12626)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12216)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11807)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10872)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13464)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11911)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11807)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11599)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12725)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14469)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12574)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15619)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13571)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12853)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9822)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 17952)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11123)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9031)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12135)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13002)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10256)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12138)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15254)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16563)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12169)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11411)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14209)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19626)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14120)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24532)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10641)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant