Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp

01 Tháng Tư 201100:00(Xem: 10759)
2. Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp

KINH THỦ LĂNG NGHIÊM GIẢNG GIẢI
SURAMGAMA SUTRA
Lê Sỹ Minh Tùng
Cuốn Một

Chương Thứ Năm

Tánh Thấy Ngoài Hai Nghĩa: Hòa Hợp Và Không Hòa Hợp


Phật bảo A nan :


- Dù ông ngộ được tâm tánh bản giác nhiệm mầu sáng suốt, không phải nhân duyên, không phải tự nhiên, nhưng ông còn chưa rõ tâm tánh sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp.


A Nan! Như Lai lại lấy tiền trần để hỏi ông. Nay ông còn lấy tất cả vọng tưởng hòa hợp với tánh nhân duyên trong thế gian mà tự nghĩ lầm rằng chứng được tâm Bồ-đề là do hòa hợpphát khởi. Vậy nay tánh thấy thanh tịnh nhiệm mầu của ông là cùng với sáng hòa hợp hay cùng với tối hòa hợp? Là cùng với thông hòa hợp hay cùng với bít hòa hợp? Nếu hòa hợp với sáng, hiện nay ông thấy sáng thì tánh thấy hòa chỗ nào? Tánh thấy và tướng sáng có thể nhận được, còn cái hình trạng “hòa” sẽ ra sao? Nếu tướng sáng ngoài tánh thấy, làm sao thấy được sáng? Nếu tướng sáng là tánh thấy, hóa ra thấy được tánh thấy, còn gì vô lý bằng? Với tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy.


Lại nữa, A Nan! Hiện nay tánh thấy nhiệm mầu sáng suốt của ông, nó hợp với sáng hay hợp với tối? Hợp với thông hay hợp với bít? Nếu hợp với sáng, đến khi tối tướng sáng mất đi rồi, tánh thấy không còn hợp được với tối, làm sao thấy được tối? Nếu không hợp với tối mà thấy được tối, khi hợp với sáng lẽ ra không thấy được sáng. Đã không thấy được sáng, làm sao hợp với sáng và biết được sáng không phải là tối? Với tướng thông, tướng bít cũng vậy.


Đến đây ông A Nanđại chúng cho dù có thấu hiểu bản tâm thanh tịnh sáng suốt nhiệm mầu không phải là do nhân duyên, cũng không phải là do tự nhiên mà có, nhưng có phải nó được sinh ra do hòa hợp hay không hòa hợp chăng? Hòa hợp có nghĩa thuận hay nghiêng về một phía nào đó. Nếu hòa hợp phía trái thì không thể hòa hợp phía mặt được. Trong phần kinh này nếu hòa hợp với sáng thì không thể hòa hợp với tối hay ngược lại. Và nếu hòa hợp với tướng thông thì không thể hòa hợp với tướng bít được.


Trước hết, Đức Phật dùng cảnh vật bên ngoài tức là tiền trần để làm đối tượng. Do đó khi ông A Nan nhìn thấy cảnh vật bên ngoài làm phát khởi sự suy tưởng ở trong tâm. Bây giờ nếu ông A Nan dùng những tư tưởng sinh diệt ấy mà tu để mong chứng được đạo quả Bồ-đề thì đây là một quan niệm sai lầm to lớn vì chạy theo vọng thức là sống với thức tâm tức là sống với tâm vô minh phiền não thì làm gì có an lạc được. Vả lại, nếu tánh thấy hòa hợp được với tướng sáng nghĩa là tánh thấy chỉ thấy được ánh sáng ban ngày, như thế khi màn đêm buông xuống ánh sáng không còn lẽ ra không thấy gì cả nhưng tại sao tánh thấy lại thấy được bóng tối. Nếu tánh thấy vừa thấy được ánh sáng và cũng vừa thấy được bóng tối thì làm sao nói hòa hợp hay không hòa hợp cho được. Vậy tánh thấy chắc chắc vượt ra khỏi cái thấy bình thường của con người vì nó thanh tịnh thông suốt cả mười phương thế giới. Muốn thấy được tánh thấy này, chúng sinh phải buông bỏ tất cả những vọng tâm chấp trước, những cái thấy duyên với bên ngoài để tâm dần dần được thanh tịnh mà có được pháp nhãn thanh tịnh thì tánh thấy thường hằng sẽ hiện bày.
A Nan thưa :


-Bạch Thế Tôn! Nay tôi lại nghĩ : Tánh thấy nhiệm mầu đối với trần cảnh và các tưởng niệm nhớ nghĩ không hòa hợp chăng?


Phật dạy rằng :


-Nay ông lại nghĩ rằng tánh thấy không hòa hợp? Tánh thấy ông gọi là không hòa hợp, nó không hòa hợp với sáng hay không hòa hợp với tối? Không hòa hợp với thông hay không hòa hợp với bít? Nếu không hòa hợp với sáng thì giữa tướng sáng và tánh thấy phải có lằn ranh giới. Ông hãy xét kỹ : Chỗ nào là tướng sáng, chỗ nào là tánh thấy? Chỗ nào là ranh giới giữa hai thứ kia? A Nan! Nếu trong tướng sáng không có tánh thấy, tướng sáng và tánh thấy không đến với nhau, tất nhiên tánh thấy sẽ không thấy sáng, làm sao lập ra ranh giới? Đối với tướng tối, tướng thông, tướng bít cũng vậy. Lại nữa, tánh thấy nhiệm mầu không hòa hợp là chẳng hợp với tướng sáng, hay chẳng hợp với tướng tối, chẳng hợp với cái thông hay chẳng hợp với cái bít. Nếu chẳng hợp với tướng sáng thì tánh thấy và tướng sáng có tánh trái nghịch nhau. Ví như lỗ tai và tướng sáng, hoàn toàn không tiếp xúc được nhau. Tánh thấy còn chẳng biết tướng sáng ở đâu thì làm sao phân biệt được nghĩa hợp hay chẳng hợp. Đối với cái tối, cái thông, cái bít kia cũng lại như vậy.


Phần trên khi ông A Nan chấp tánh thấyhòa hợp thì bị Phật bác, trong phần này ông liền chuyển qua không hòa hợp. Trần cảnh và các ý tưởng trong tâm thức đều là vọng thức sinh diệt còn tánh thấy thường hằng bất biến thì làm sao hòa hợp hay không hòa hợp được. Đức Phật lại đưa ra thí dụ rằng nếu tánh thấy và ánh sáng không hòa hợp được thì dĩ nhiên hai bên phải có ranh giới chia đôi nghĩa là tánh thấy và ánh sáng không thể pha trộn lẫn nhau. Nhưng tánh thấychân không, vô hình vô tướng thì làm sao phân chia ranh giới với tướng sáng cho được.


Trong những đoạn kinh trên, Đức Phật bác các thuyết nhân duyên, tự nhiênhòa hợp chớ Ngài không bác lý Duyên khởi. Giáo lý Duyên khởiđạo lý vi diệu thậm thâm của Phật giáo. Bởi vì tất cả mọi sự vật trên thế gian vũ trụ này đều là do hiện tượng trùng trùng duyên khởi mà có. Do duyên khởi mà sự vật có sinh ra (sinh) và cũng do duyên khởi sự vật tiếp tục phát triển tồn tại (trụ). Vì sự vật không có tự tánh nên do duyên khởi phải chịu sự thoái hóa của luật vô thường mà thay đổi (dị) và sau cùng đi đến tiêu diệt (diệt). Do đó khi nói đến sinh và diệt thì nói đến nhân duyên và khi nói đến trụ và dị thì nói đến hòa hợp. Mặc dù sinh, trụ, dị, diệt đều là duyên khởi, là huyển hóa không thật nên Phật mới bác đi các nghĩa nhân duyên, tự nhiên chớ Phật không bác bỏ đạo lý Duyên khởi. Tại sao? Bởi vì tất cả mọi sự vật duyên khởi như huyễn nên khi sinh không có gì thật sự là sinh nên mới gọi là không phải nhân duyên và sự vật duyên khởi không thật có, vì không có tự tánh, nên mới gọi là không phải tự nhiên. Nhưng cái tánh Duyên khởi như huyển, không có tự tánh này lại là chân tánh, là pháp giới tánh, là tánh chân như nhiệm mầu và là tâm tánh chân thật của tất cả mọi chúng sinh.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15050)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13495)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15191)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16579)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13263)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12624)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13512)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13479)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12804)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12098)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12023)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12694)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11538)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11828)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11192)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13338)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13218)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11628)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12218)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12390)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12015)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12780)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12404)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12249)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12315)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12051)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11967)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11264)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11405)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12404)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12496)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12026)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12997)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12090)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12634)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13046)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13995)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12769)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14899)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11966)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12914)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12792)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14815)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12789)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15435)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12617)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13248)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14288)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15602)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13769)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13162)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13599)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12511)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12107)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12934)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13030)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13259)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21371)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143804)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant