Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 1: Chuẩn bị cho việc tiếp nhận lễ quán đỉnh

09 Tháng Tư 201100:00(Xem: 9918)
Phần 1: Chuẩn bị cho việc tiếp nhận lễ quán đỉnh

KALACHAKRA VẤN ĐÁP PHẦN 1:
CHUẨN BỊ CHO VIỆC TIẾP NHẬN LỄ QUÁN ĐỈNH

Question Sessions with H. H. the Fourteenth Dalai Lama Concerning the Kalachakra Initiation
Dharamsala, India, November 5, 1983; August 13, 1984; January 22, 1985; March 25, 1985; March 26, 1986
Anh dịch: Alexander Berzin - Chuyển ngữ: Tuệ Uyển - 02/01/2011

blank

MỤC LỤC
:
1- Những Chủ Đề Giới Thiệu cho việc Thọ Nhận Lễ Quán Đỉnh
2- Shambhala
3- Tiên Đoán Về Sự Xâm Lăng Của Những Người Hung Tợn
4- Học Tập Về Lễ Quán Đỉnh Và Những Thệ Nguyện Trước Khi Nhận Lễ Quán Đỉnh
5- Tham Dự Như Những Người Quán Sát Đơn Thuần

1- Những Chủ Đề Giới Thiệu cho việc Thọ Nhận Lễ Quán Đỉnh

 

BERZIN: Khi tôi sang phương Tây năm tới để giới thiệu về lễ quán đỉnh Giáo Pháp Thời Luân, điều gì lợi lạc để giúp mọi người chuẩn bị? Điều gì hữu ích cho mọi người biết như căn bản cho việc tham gia lễ quán đỉnh?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Hãy nói về những việc khác thường phải hiểu đối với Giáo Pháp Thời Luân. Thiết lập nó như một mạn đà la Vô Thượng Du Già, trình bày những đặc trưng đặc biệt của nó. Rồi thì, hãy giải thích cách thức mà Giáo Pháp Thời Luân hoạt động. Sau đấy, vì lễ quán đỉnh là quan trọng và vì tiếp nhận lễ quán đỉnh, giữ gìn thệ nguyệncăn bản, và trước điều này rèn luyện trong những lộ trình thông thường của bồ đề tâm và khái niệm đúng đắn về tính không là cực kỳ thiết yếu; sẽ rất tốt nếu ông giải thích một ít về những điều này.

Thêm nữa, nếu ông còn thời gian, hãy giảng về cung cách thông thường của việc tiến hành với vô thượng du già, từng bước một, và những đặc trưng mà nó chia sẻ với giáo pháp tương tục (tantra) một cách phổ quát. Không có một nền tảng và sự chuẩn bị tốt, sẽ không có gì trở nên liên hệ với tantra. Tôi cũng sẽ giới thiệu về những điều này như mở đầu.

BERZIN: Còn về việc diễn tả lịch sử của Giáo Pháp Thời Luân và sự lan truyền của nó đến Ấn ĐộTây Tạng thì thế nào?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Điều ấy tốt lắm.

 

2- Shambhala

 

blank

SHAMBHALA

 

BERZIN: Có lợi ích không khi giải thích về Shambhala?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Chắc chắn rồi. Ông nghĩ nó ở đâu?

BERZIN: Tôi hoàn toàn không biết. Serkong Rinpoche nói rằng nó không phải ở trên Trái Đất, nhưng có lẻ là ở một thế giới khác nơi của những đĩa bay. Đấy là bởi vì luận điển nói về những người đến từ Shambhala trên những phương tiện máy bay. Họ đến từ Shambhala để xem xét tình hình của chúng ta. Một vài nền văn hóa trong những người bản địa của Nam Mỹ và Nam Phi châu cũng có những huyền thoại như thế, những khách viếng thăm như thế đã đến từ xa xưa ngoài không gian và dạy họ về việc làm lịch cùng thiên văn học. Có lẻ họ đã đến từ Shambhala.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Theo quan điểm của Phật Giáo, Shambhala là một cõi Tịnh Độ như Cực Lạc Tây Phương, cõi Đâu Suất, và Khachari (cõi Dakini)

BERZIN: Shambhala không phải là một thế giới con người chứ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nếu đấy là một cõi tịnh độ, thì không phải là cõi trời (god realm). Có một số tịnh độcon người có thể đến. Ngay cả những người không phải Phật tử cũng có thể đến được và một khi ở đấy, họ sẽ theo đuổi con đường tâm linh.

BERZIN: Shambhala có bao gồm thế giới luân hồi hay niết bàn không? Serkong Rinpoche nói nó là một thế giới luân hồi.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Dường như nó ở trong thế giới luân hồi. Tuy thế, một khi đến cõi luân hồi này, tâm thức và trái tim con người tự nhiên phát triển một cách nhanh chóng hơn. Chắc chắn giống như thế giới nhân gian trong cõi luân hồi lưu chuyển nơi mà những người đặc biệt đã xây dựng một kho tàng to lớn của năng lực tích cực (công đức, khả năng tích cực).

BERZIN: Vậy thì nó không nhất thiết là một cõi tịnh độ, nhưng chỉ là tương tự như một cõi tịnh độ?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó không phải là một cõi tịnh độ trong ý nghĩa của một thế giới chư thiên. Nó là một thế giới con người, nhưng chắc chắn cũng là một cõi tịnh độ.

BERZIN: Nó không ở trên Trái Đất?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó không ở trên Trái Đất. Nếu thế, chúng ta có thể tìm ra nó. Tuy nhiên, nó chắc chắn ở trong vũ trụ, nhưng chúng ta cần nghiệp thanh tịnh để đến đấy. Tôi tự hỏi, nếu chúng ta có thể thật sự đến đấy một cách trực tiếp bằng một cố phương tiện cơ giới nào đấy, như phi thuyền. Tại sao tôi nghĩ như thế, tôi không biết. Nhưng, những gì mà Đức Ban Thiền Lạt Ma thứ ba, Palden - yeshey nói làm cho vấn đề hơi phức tạp một chút. Trong ‘Cẩm Nang Hướng Dẫn Con Đường đến Shambhala’, ngài đã viết rằng, nếu quý vị thực hiện một khóa tu thiền quán mãnh liệt, rồi thì quý vị có thể thật sự gặp những bổn tôn và các ngài sẽ giúp quý vị đi đến Shambhala. Ngài viết như thế. Do vậy, đấy không phải là một hành trình vật lý thông thường.

BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói với tôi rằng cha của ngài là Serkong Dorjechang đã từng đi đến Shambhala và đã đem về hoa và trái cây, mà họ đã để trong nhà của họ.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi quy y với ngài! Đức Ban Thiền Thứ Ba cũng đã đến Shambhala. Một số đạo sự uyên bác cũng đã đến đấy. Có một tường thuật của Taranatha [1] đi đến Shambhala, nhưng tôi nghĩ đấy là qua một thân mộng uyển. Tuy thế, nó không trên trái đất tròn này. Chắc chắn là một tịnh độ với nhân sinh tương tự trên trái đất này. Thật khó để nói.

BERZIN: Luận điển Thời Luân nói về lục địa lớn và nhỏ của Diêm Phù Đề [2]. Về nửa vùng phía Bắc của lục địa nhỏ, sách liệt kê sáu vùng đất về phía Bắc, một vùng là Shambhala.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Thật khó khăn. Nếu chúng ta nói trong những dạng thức như vậy, thế thì Shambhala sẽ lầ một nơi trên Trái Đất này. Cũng có đề cập trong sách về núi Phổ Đà La (Potala) ở phương Nam, vùng đất Ugyan (Skt. Oddiyana) ở phía Tây, Núi Ngũ Phong ở phía Đông và Shambhala ở phía Bắc.

BERZIN: Serkong Rinpoche đã nói về những thứ này, một số ở trên Trái Đất và một số thì không.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Một cách chính xác, đấy là tại sao. Có hai cho mỗi thứ: những thứ thật sự và những thứ tương tựđại diện cho chúng. Thí dụ, theo học giả Gendun-chopel, Ugyan ở trong Sindhi (Swat Valley ở Pakistan). Ngày nay, đấy là một vùng Hồi Giáo. Nó hoàn toàn không rõ ràng, nhưng đối với Núi Đồng Sắc (Copper-Colored Mountain) mà Liên Hoa Sinh Đại Sĩ đã đến trong Ugyan, chắc chắn là trong một cõi tịnh độ vô nhiễm.

Bây giờ đối với Núi Phổ Đà La ở phương Nam, thì như một đại diện cho nó, có một núi ở Nam Ấn. Nhưng rồi thì có một ngọn núi Phổ Đà của Quán Thế Âm, là một cõi tịnh độ (Phổ Đà Sơn). Đối với Núi Ngũ Nhạc, có một nơi quen thuộc ở Trung Hoa, Ngũ Đài Sơn, với tên này như là một nơi thật sự ở phía Đông, mà cũng có một cõi tịnh độ của Văn Thù Đại Sĩ có cùng tên.

Vì vậy, hoàn toàn chắc chắn Shambhala cũng là một cõi tịnh độ như thế, với một vị trí nào đấy đại diện cho nó. Cũng có một tiền lệ trước cho sự biểu hiện của nó. Tuy nhiên, nó không thể tìm thấy trong bất cứ nơi nào. Có nhiều lý do và dấu hiệu để nói về sự hiện hữu của nó, nhưng bởi vì nó không ở trên thế giới này, thế thì ngoại trừ vì nó biểu hiện là một cõi tịnh độ vô nhiễm, không có điều gì khác có thể liên hệ đến những điều trong luận điển.

BERZIN: Và về những chi tiết nói đến những đĩa bay?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Có thể nói rằng chúng có liên hệ với Shambhala. Một cách chắc chắn, có những chúng sinh khác trong vũ trụ này. Có những loại chúng sinh khác và dứt khoát vì thế họ ở những thế giới khác, không chỉ trong thế giới chúng ta. Điều ấy là rõ ràng. Có nhiều thiên hà.

Bây giờ, Shambhala bao hàm trong thiên hà của chúng ta, có lẻ ngay cả trong thái dương hệ của chúng ta, vì luận điển nói nó bao gồm trong Diêm Phù Đề (hệ thống thế giới của chúng ta). Do thế, nó nói về một cõi tịnh độ trong hệ thống thế giới của chúng ta, tuy vậy, có thể rộng lớn hơn, nơi chỉ có những chúng sinh với nghiệp thanh tịnh có thể đến và nơi mà những chúng sinh với thân thể con người.

BERZIN: Ở phương Tây, chúng tôi đã từng nói về Shangrila. Điều này có liên hệ gì không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Nó là một nơi thanh khiết, có phải không? Tôi không biết, nhưng chắc chắn là thế. Tên gọi biểu thị cho một nơi thanh tịnh, vì thế tôi nghĩ tên gọi chắc chắn có nguồn gốc từ Shambhala.

 

3- Tiên Đoán Về Sự Xâm Lăng Của Những Người Hung Tợn

BERZIN: Giải thích cách nào hay nhất về những tiên đoán về những kẻ xâm lược hung tợn không phải người Ấn, người Lalo?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MAChúng ta thật sự có thể nói rằng họ là những người Hồi hay những nhóm cùng chia se những phong tục thông thường với họ không? Hoàn toàn không chính xác. Tôi không biết nói thế nào. Thí dụ, ở Mông Cổ, họ gọi người Nga “Turuka,” tên khác xuất hiện trong văn bản cho những kẻ xâm lược Lalo. Những người Cộng sản thông thường bị gọi Turuka hay Lalo. Lolo, thế thì, là những kẻ cố gắng tiêu diệt Phật Giáo một cách chủ tâm.

BERZIN: Có phải tốt nhất chỉ gọi họ là Lalo trong tiếng Anh?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, Lalo có lẻ là tốt nhất. Nếu ông nhìn vào Tantra Thời Luân Tóm Lược, nói rằng Lalo ăn thịt bò và trứng. Liên hệ đến những kẻ không phải người Ấn [vì người Ấn không ăn thịt bò và trứng], và không nghi ngờ gì nữa là những người đến từ vùng khí hậu ấm. Rõ ràng là Âu châu, những vùng khí hậu mát, không có gà. Tôi cũng không nghĩ nó phải ở vào những thời xa xưa. Người Hy Lạp và La Mã chắc chắn ăn gà [và người Ấn ban sơ dùng thuật ngữ Lalo (skt. Mlecha) cho quân đội xâm lược của Alexander Đại Đế của Macedonia]. Ở Tây Tạng, chúng tôi đặc biệt không ăn trứng. Đấy là phong tục Ấn Độ, thế thì tại sao liên hệ đến trứng?

Turuka liên hệ đến người Turkic [3], có phải không? Trong những người Hồi xâm lược Ấn Độ, có vài làn sóng của người Turkic. Tuy thế, những người Mughal không phải Turkic và họ xâm lược về rất sau này. Có phải những người vào lúc ấy [và cuối thế kỷ thứ chín hay thứ mười khi giáo huấn Thời Luân đến Ấn Độ] bị gọi là Thổ (Turk)? Tôi nghĩ rằng nếu luận điển có một liên hệ lịch sử, họ liên hệ đến những người Turkic xâm lược Ấn Độ.

Tuy thế, Turuka liên hệ thông thường đến những ai tàn phá Phật Giáo [cho dù những bộ lạc ở Trung Á hay những nơi khác, cho dù Hồi Hồi, Cộng sản, hay bất cứ tín ngưỡng nào khác.]

BERZIN: Có phải người Lalo có thể chỉ là biểu tượng và chỉ liên hệ đến những năng lực tàn phá mà chúng ta phải chiến đấu trong một trận chiến tâm linh nội tại hay không?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi tự hỏi nó có phải chỉ là biểu tượng hay không? Khi luận điển nói về chiến tranh và Đại lĩnh Thần hầu [4], nó chỉ là biểu tượng hay thật sự, tôi không biết.

BERZIN: Nhưng chúng thật có những ý nghĩa biểu tượng, như luận điển Thời Luân giải thích.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Vâng, nhưng những luận giải của những đạo sư uyên bác không chỉ xem chúng một cách biểu tượng, mà cũng là đúng như thế. Tuy nhiên, nếu sự liên hệ nói đến một cuộc chiến nguyên tử, nó sẽ không có cho đến gần như 400 năm nữa. Nhưng nó sẽ như thế nào, tôi không biết.

BERZIN: đôi khi người Tây phương hỏi trận chiến này và vị Phẫn Nộ Chuyển Luân Thánh Vương [5][vị lĩnh đạo của Shambhala đánh bại người Lalo] có sẽ xuất hiện sớm hơn không. Điều đấy có thể chứ?

blank

PHẪN NỘ CHUYỂN LUÂN VƯƠNG

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không biết. Thật khó khăn để nói. Nhưng nếu Shambhal xuất hiện sớm hơn, thế thì chúng tôi sẽ có thể trở lại Tây Tạng sớm hơn. Shambhala đến càng sớm; sự giải thoát sẽ càng sớm hơn.

 

4- Học Tập Về Lễ Quán Đỉnh Và Những Thệ Nguyện Trước Khi Nhận Lễ Quán Đỉnh

BERZIN: Như một giới thiệu cho lễ quán đỉnh, như thế có cho phép diễn tả mạn đà la, bao nhiêu bổn tôn, màu sắc, và v.v…?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Được thôi. Nếu người ta biết một ít về những chương trình của lễ quán đỉnh là điều rất tốt. Sau này, trong lễ quán đỉnh thật sự, tôi sẽ giới thiệu mỗi phần. Nhưng nếu mọi người biết trước một ít, sẽ rất hữu ích.

BERZIN: Về phần những thệ nguyện Mật tông và cam kết thầy trò (samaya), có được phép để nói cho mọi người trước hay không? 

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Theo tiến trình Mật thừa, người ta không được công khai những thệ nguyện này trước lễ quán đỉnh. Tuy nhiên, đối với những ai chân thành tiếp nhận lễ quán đỉnh nếu họ biết trước một ít, rồi thì lễ quán đỉnh sẽ xảy ra một cách thật sự mạnh mẽ và toàn hảo. Nhưng những người như vậy cần phải là những Phật tử thành tâm và xác định rõ về việc tiếp nhận lễ quán đỉnh hay những ai đã từng tiếp nhận những lễ truyền pháp Vô Thượng Du Già trước đây. Để giải thích cho những người như vậy, sẽ không có gì lỗi lầm. Một cách đặc biệt nếu những người đã tiếp nhận những lễ truyền pháp Vô Thượng Du Già khác, thế thì không có sai trái với sự giải thích những cam kết (samaya) Thời Luân Kim Cương.

Đối với những ai chưa nhận lễ quán đỉnh Vô Thượng Du Già (anuttarayoga) và không có ý định tiếp nhận lễ truyền pháp, thí dụ, những ai chỉ là những học giả, thì không tốt để giai thích cho họ. Tốt hơn là có một số hạn chế. Tuy nhiên, nếu những thệ nguyện Mật thừa và những cam kết samaya đã phổ biến rồi và người ta hiểu sai chúng và chấp giữ những quan niệm sai lầm về chúng, điều cần thiết là để qua một bên sự cấm đoán. Tốt hơn là cho mọi người một sự giải thích đúng đắn, hơn là để họ làm mất uy tín Mật tông do bởi những tin tức sai lầm hay sự giảng giải nghèo nàn.

 

5- Tham Dự Như Những Người Quán Sát Đơn Thuần

BERZIN: Trong những người sẽ tham dự lễ quán đỉnh, hầu hết thích thú trong Phật Giáo, nhưng thật khó để nói họ sẽ chấp nhận Đạo Phật hay không. Những ai không theo Phật Giáo, nhưng tham dự lễ quán đỉnh sẽ không muốn thọ giới Bồ Tát và những thệ nguyện Mật Tông.

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Đây là một điều mà tôi thường nói đến vào lúc lễ quán đỉnh. Rồi thì họ chỉ muốn như những người quán sát hay chứng kiến. Tôi nói như thế lần cuối tôi truyền pháp ở Hoa Kỳ. Cũng thế, ở Pháp, khi tôi truyền trao lễ quán đỉnh tám biểu hiện Liên Hoa Sinh Đại sĩ (Guru Rinpoche), trong ngày thứ hai, Thị Trường Jacques Chirac [7] đến và tôi đã mời ông tham dự như một người chứng kiến. Ông ta không phải là Phật tử, mặc dù thích Đạo Phật. Vì thế không có gì tai hại.

Vì vậy, lúc truyền giới Bồ Tát, tôi thường giải thích rằng chỉ những Phật tử, muốn tiếp nhận và những ai có thể giữ giới, mới cần quán tưởng điều này. Rồi thì, tôi cũng làm như thế với thệ nguyện Mật Tông. Những ai không có nguyện ước thọ nhận giới nguyện chỉ như những người quán sát hay chứng kiến [và đừng theo đuổi những tiến trình tương tựquán tưởng].

BERZIN: Khi người ta ở đấy như vậy và quán chiếu, điều gì tốt nhất cho họ để suy tư và những gì lợi ích cho họ đối với những người quán chiếu?

ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA: Tôi không thể nói. Mặc dù người ta có thể đề xuất những tư tưởng hữu ích nếu người như vậy tiếp nhận, nhưng chúng ta không có quyền khuyến khích họ nên suy nghĩ như thế này hay thế nọ. Chỉ đơn giản là những người quán chiếu. Một số ngay cả đi đến phê bình Phật Giáo. Điều ấy là có thể. Tuy nhiên, chúng ta không bình phẩm. Đấy là quyền của họ. Đối với những người chúng taPhật tử, chúng ta có thể cho họ những lời hướng dẫn đến những gì để suy tư và hành động trong lễ quán đỉnh; những đối với những người khác, chúng ta không thể đề xuất những hướng dẫn cho họ. Chúng ta chỉ có thể nói quán chiếu và đấy là tất cả.

Một số có thể đi đến những cảm giác bệnh hoạn, nhưng hầu hết không có cảm giác như vậy. Đối với những ai không có cảm giác bệnh hoạn, không có vấn đề gì với họ. Nhưng, đối với những kẻ đi đến với cảm giác như thế đối Đạo Phật, thì họ không cần phải đến. Đối với những người với cảm giác bệnh hoạn đối với Phật Giáo thì tốt hơn là ở nhà. Tuy nhiên, không có điểm nào trong việc nói rằng đừng có cảm giác bệnh hoạn. Vì vậy, tốt hơn thật sự là những người quán sát vô tư và thế rồi không có gì để nói. Có phải như thế không?

 

Phụ chú trong ngoặc vuông của Giáo sư Berzin

[1] Taranatha: tên của một học giả sử gia người Tây Tạng thuộc dòng Jonangpa, truyền thống bị cấm đoán vởi Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ năm vì cho rằng đấy là truyền thống ngoại đạo. Tác phẩm nổi tiếng của ông có nhan đề là “Lịch Sử Phật Giáo ở Ấn Độ”.

[2] Jambuvipa: châu Diêm Phù Đề, Nam Thiệm Bộ Châu, Nam Châu, Nam Bộ, Nam Diêm Phù Đề, Nam Phù.

[3] Turkic: những người nói tiếng Altaic bao gồm Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmen, Kirghiz, Tarta… từ Thổ Nhĩ kỳ đến Tây Bắc Trung Hoa, đặc biệt ở Trung Á.

 [4] Hanuman – Cáp Nô Man – nhân vật trong sử thi Ramayana của Ấn Độ 

[5] Dragpo Korchen (Drag-po 'khor-can, Skt. Rudrachakrin)

[6] Hứa nguyện, hay thệ nguyện thiêng liêng mà đấy sẽ kết chặc hành giả Kim Cương Thừa với vị Kim Cương Sư và Yidam. Hành giả cam kết và cố gắng giữ gìn thệ nguyện cũng như những thực hành nào đấy. Samaya – damsig: Cảnh nhà tu quyết đắc Phật huệ. Từ này gồm những nghĩa: Tam bình đẳngTam mật tương ưng: thân – khẩu – ý như nhau. Thệ nguyện giữ giới. Cảnh giác làm thức tỉnh giác ngộ. Trừ cấu chướng: diệt trừ phiền não chướng ngại đối với thân tâm.

[7] Jacques René Chirac (trợ giúp·chi tiết) (sinh ngày 29 tháng 11năm 1932 tại Paris) là một nhà chính trị người Pháp. Ông đã được bầu làm Tổng thống Pháp vào năm 1995 và 2002. Từng giữ những chức vụ Bộ trưởng bộ Nông nghiệp, Thủ tướngThị trưởng Paris và rồi Tổng thống Pháp.

Ẩn Tâm Lộ ngày 08/01/2011


Bài liên quan:

THÔNG BẠCH CỦA BAN TỔ CHỨC KALACHAKRA 2011


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11689)
Bài kinh không những chỉ dành riêng cho người cao tuổi mà cho tất cả những ai muốn tu tập, nhằm mang lại cho mình một tâm thức an bìnhtrong sáng.
(Xem: 12009)
Bài kinh được xem là tinh hoa tâm linh của người xuất gia, như ngón tay chỉ mặt trăng và như chiếc bè đưa sang bờ giải thoát.
(Xem: 11155)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 11394)
Trong bài kinh nầy, Đức Phật giảng về đời sống tốt đẹp cần phải có của một cư sĩ Phật tử.
(Xem: 12117)
Kinh này được dịch từ Tương Ưng Bộ của tạng Pali (Samyutta Nikàya IV, 380). Kinh tương đương trong tạng Hán là kinh số 106 của bộ Tạp A Hàm.
(Xem: 12604)
Đây là một bài kinh rất phổ thông tại các quốc gia Phật giáo Nam truyền và thường được chư Tăng tụng và thuyết giảng trong các dịp lễ.
(Xem: 10827)
Trong bản kinh này Đức Phật thuyết giảng về bản chất vô thường và vô thực thể của năm thứ cấu hợp gọi là ngũ uẩn tạo ra một cá thể con người.
(Xem: 18046)
"Chiếc bè này lợi ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân để vượt qua bờ bên kia một cách an toàn"
(Xem: 11762)
Tánh không không nhất thiết chỉ là một luận thuyết đơn thuần triết học mà còn mang tính cách vô cùng thực dụngthiết thực, ứng dụng trực tiếp vào sự tu tập nhằm mang lại sự giải thoát.
(Xem: 9998)
Của cải kếch xù của một người như thế nếu không biết sử dụng thích đáng thì cũng sẽ bị vua chúa tịch thu, bị trộm cắp vơ vét, bị thiêu hủy vì hỏa hoạn...
(Xem: 10228)
Bồ Tát Thiện Giới, hiểu theo nghĩa Việt là những giới tốt lành, hay kheo, chơn chánh của Bồ tát.
(Xem: 12404)
Kinh Kim Cang thuộc hệ Bát Nhã, một trong ngũ thời giáođức Phật đã thuyết, và là quyển thứ 577 trong bộ kinh Đại Bát Nhã gồm 600 quyển.
(Xem: 15409)
Kinh Di Giáo là một tác phẩm đúc kết những gì cần thiết nhất cho người xuất gia. Đây là những lời dạy sau cùng của Đức Phật, đầy tình thương và sự khích lệ.
(Xem: 11283)
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha-parinirvana-sutra), cũng được gọi tắt là Kinh Đại Niết Bàn, hoặc ngắn hơn là Kinh Niết Bàn
(Xem: 14398)
Đức Phật A Di Đà do lòng Đại từ bi, Đại nguyện lực, như nam châm hút sắt, nhiếp thọ hết tất cả chúng sanh trong mười phương vào trong cõi nước Tịnh độ của Ngài,
(Xem: 12158)
Kinh Sa-môn quả đã được đức Phật dạy cách đây trên hai mươi lăm thế kỷ. Nội dung tất cả các phương pháp Phật trình bày trong kinh này đều xoáy sâu vào ba vô lậu học là giới – định – tuệ.
(Xem: 15444)
Sáu chữ BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA sẽ được giải ở câu đầu tiên của phần nội văn, bây giờ giải đề Kinh chỉ giải hai chữ TÂM KINH
(Xem: 12049)
Đề cương kinh Pháp Hoa là học phần cương yếu, Thượng nhân Minh Chánh nêu lên cốt lõi của kinh qua cái nhìn của thiền sư Việt Nam...
(Xem: 12475)
Tên của bộ Kinh này là Kinh Lục Tổ Pháp Bảo Đàn, tên riêng là "Lục Tổ Pháp Bảo Đàn." "Kinh" là tên chung của các bộ Kinh
(Xem: 11259)
Duy ma trọng nhất là bồ đề tâmthâm tâm. Bồ đề tâm thì vừa cầu mong vừa phát huy tuệ giác của Phật. Thâm tâmchân thành sâu xa trong việc gánh vác chúng sinh đau khổ và hội nhập bản thể siêu việt.
(Xem: 12136)
Bài Bát-nhã Tâm kinh do ngài Huyền Trang đời Đường dịch vào năm 649 dương lịch, tại chùa Từ Ân. Toàn bài kinh gồm 260 chữ.
(Xem: 10669)
Thế Tôn đã để lại cho chúng ta một phương pháp để thẩm định đâu là giáo lý Phật Giáo, đâu không phải là những lời dạy của đức Phật.
(Xem: 12594)
Quyển Pháp Hoa Đề Cương là một tác phẩm thật có giá trị của một Thiền sư Việt Nam gần thời đại chúng ta.
(Xem: 13232)
Hội Phật Học Nam Việt - Chùa Xá Lợi Saigon Xuất Bản 1964, Trung Tâm Văn Hóa Phật Giáo Việt Nam-Hoa Kỳ Chùa Huệ Quang Tái Xuất Bản
(Xem: 14916)
Phật pháp không phải là một, không phải là hai, từ lâu truyền lại, ngoài tâm có pháp tức ngoại đạo. Người học đạo Phật ai ai cũng biết như thế.
(Xem: 12752)
Kinh Đại Bát Niết Bànbài kinh nói về giai đoạn cuối đời của đức Phật Thích Ca, từ sáu tháng trước cho tới khi ngài viên tịch, tức là nhập Bát Niết Bàn.
(Xem: 16632)
Nghĩa lý kinh Kim cương là ngoài tầm nghĩ bàn, phước đức kinh Kim cương cũng siêu việt như vậy.
(Xem: 19734)
Phật dạy tất cả chúng sanh đều sẵn có Trí huệ Bát Nhã (Trí huệ Phật) từ vô thỉ đến nay. Trí huệ Bát Nhã rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép.
(Xem: 13182)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 348 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12723)
Giới bản tân tu này tuy cũng có 250 giới điều như giới bản cổ truyền nhưng đáp ứng được một cách thỏa đáng cho nhu yếu thực tập của người xuất gia trong thời đại hiện tại.
(Xem: 12326)
Tạng Kinh là bản sưu tập gồm tất cả những bài Kinh đều do Đức Phật thuyết vào những lúc khác nhau.
(Xem: 11916)
Bài kinh được bắt đầu bằng những điều ta cần làm để được bình an. Không phải là những điều ta cần làm cho tha nhân.
(Xem: 10977)
Pháp ấn này chính là ba cánh cửa đi vào giải thoát, là giáo lý căn bản của chư Phật, là con mắt của chư Phật, là chỗ đi về của chư Phật.
(Xem: 13582)
Thích Đức Nhuận, Viện Triết Lý Việt Nam & Triết Học Thế Giới California, USA Xuất bản 2000
(Xem: 11997)
Tam Tạng Pháp sư Cưu Ma La Thập, đời Dao Tần dịch. Sa môn Hám Sơn Thích Đức ThanhTào Khê, đời Minh soạn - Việt Dịch: Hạnh Huệ
(Xem: 11914)
Hán dịch: Thiên Trúc Tam Tạng Pháp Sư Bồ Đề Lưu Chi - Đời Nguyên Ngụy, Việt dịch: Tuệ Khai cư sĩ - Phan Rang - Chứng nghĩa: Tỳ Kheo Thích Đỗng Minh
(Xem: 11692)
Bồ tát Long Thọ ra đời khi các cánh cửa của Phật giáo Đại thừa được bắt đầu mở rộng.
(Xem: 12805)
Kinh Căn Bản Pháp Môn nêu lên hai cách tu tập: Chỉ (samātha) và Quán (vipassana). Đây là hai cách tu tập cần yếu trong hành trình dẫn đến giác ngộ.
(Xem: 14587)
Trong tác phẩm này, chúng tôi đã cố gắng giới thiệu một phần quan trọng của tạng kinh thuộc Nhất thiết hữu bộ (Sarv.) là kinh Trung A-hàm (Madhyama Àgama) trong hình thức toàn vẹn của nó.
(Xem: 12673)
Hòa thượng Tịnh Không giảng tại Tịnh Tông Học Hội Tân Gia Ba, bắt đầu từ ngày 28/5/1998, tổng cộng gồm năm mươi mốt tập (buổi giảng).
(Xem: 15736)
Bộ kinh này có mặt ở Trung Quốc từ đời nhà Đường (618-907). Ngài Bát Lạt Mật ĐếDi Già Thích Ca dịch từ Phạn văn ra Hán văn.
(Xem: 13669)
Kinh Pháp Cú là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh trong Kinh tạng Pali. Đây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất và đã được dịch ra rất nhiều thứ tiếng trên thế giới.
(Xem: 12960)
Diệu Pháp Liên Hoa có thể nói là bộ kinh nổi tiếng nhất trong khu vườn kinh điển Phật giáo Đại thừa.
(Xem: 9924)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 18072)
Thế Tôn đã từng dạy, chỉ có từ bi mới có thể hóa giải được gốc rễ hận thù, tranh chấp, đối kháng và loại trừ lẫn nhau, ngoài từ bi không có con đường nào khác.
(Xem: 11231)
Kinh Kim Cương là một bộ kinh có một vị trí đặc biệt trong lịch sử học tập và tu luyện của Phật giáo nước ta. Từ giữa thế kỷ thứ 7, trước cả Lục tổ Huệ Năng, thiền sư Thanh Biện của dòng thiền Pháp Vân đã nhờ đọc kinh này mà giác ngộ.
(Xem: 9125)
“Ư bỉ nhị thập nhất câu chi Phật độ, công đức trang nghiêm chi sự, minh liễu thông đạt, như nhất Phật sát, sở nhiếp Phật quốc, siêu quá ư bỉ.” Chỉ một câu văn trong kinh Vô Lượng Thọ mà ta đã có ba chữ nói về cõi Phật.
(Xem: 12248)
Chúng ta biết rằng, lý do tồn tại của Thiền cốt ở tâm chứng, không phải ở triết luận có hệ thống. Thiền chỉ có một khi mọi suy luận được nghiền nát thành sự kiện sống hàng ngày và trực tiếp thể hiện sinh hoạt tâm linh của con người.
(Xem: 13102)
Bài kinh này được chọn trong bộ kinh Theragatha mà kinh sách Hán ngữ gọi là Trưởng Lão Tăng Kệ, thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka).
(Xem: 10355)
Này người Bả-la-môn, ngay cả trước khi việc hiến sinh bắt đầu thì người đốt lửa, dựng đàn hiến sinh cũng đã vung lên ba thanh kiếm bất hạnh...
(Xem: 12244)
Mettâ-sutta là một bản kinh ngắn rất phổ biến trong các quốc gia theo Phật Giáo Nguyên Thủy cũng như các quốc gia theo Phật Giáo Đại Thừa. Tên quen thuộc bằng tiếng Việt của bản kinh này là "Kinh Từ Bi"
(Xem: 15382)
Câu “Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm” không chỉ là yếu chỉ tu hành của những người tu Phật mà còn có công năng chuyển hóa những tâm hồn bi quan, khổ đau trong cuộc đời, giúp họ sống tỉnh giác và xả ly, tự tin, làm chủ bản thân trước mọi hoàn cảnh sống.
(Xem: 16679)
BÁT NHÃ TÂM KINH (Prajnaparamitahridaya Sùtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát nhã ba la mật (Prajnaparamità).
(Xem: 12295)
Bát-nhã là tiếng Phạn, dịch sang tiếng Trung-hoa có nghĩa là trí-huệ, tiếng Việt-nam mình cũng giữ chữ đó là trí-huệ.
(Xem: 11560)
Giáo lý Tứ diệu đế với bốn chân lý vượt lên trên mọi tác động của điều kiện bên ngoài, bàn về bản chất của kiếp nhân sinh và khả năng vượt thắng mọi nỗi khổ niềm đau của con người đã trở thành động lựcniềm tin của nhân loại.
(Xem: 14344)
Đại Thừa Khởi Tín Luận - Con đường đưa đến giác ngộ, Tác Giả: Mã Minh - Dịch & Giải: Chân Hiền Tâm.
(Xem: 19781)
Tỳ Kheo GiớiTỳ Kheo Ni Giới do HT Thích Trí Quang dịch và giải
(Xem: 14220)
Hán dịch: Tam tạng Phật-đà Da-xá và Trúc-phật-niệm. Việt dịch: Tỳ-kheo Thích Đỗng Minh và Thích Đức Thắng. Hiệu chính và chú thích: Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng
(Xem: 24683)
600 câu hỏi và trả lời liên quan đến giáo lý, hành trì, sự phát triển của Phật Giáo; đến lịch sử, văn hóa của các nước thọ nhận Phật Giáo; đến các vấn đề văn hóa, xã hội, chính trị thời đại.
(Xem: 10739)
Kinh 42 Bài là dịch từ chữ Hán Tứ Thập Nhị Chương. Kinh nầy có nhiều bản chữ Hán. Bản lưu hành cho đến gần đây, theo sự ước đoán của Hòa Thượng Trí Quang
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant