Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ KheoTỳ Kheo Ni

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 7970)
Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ Kheo Và Tỳ Kheo Ni

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ sáu: Tỳ Kheo Tỳ Kheo Ni Giới Cương Yếu
Chương 1: Khởi Nguyên Của Tỳ KheoTỳ Kheo Ni

 LỜI MỞ ĐẦU

 

Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giớiđại giới trọng yếu trong Phật giới, vì thế cũng là một thứ Phật giới phong phú nhất. Nhìn từ góc độ trụ thế của Phật pháp, Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới trọng yếu hơn Bồ tát giới. Thế nên trong Đại Tạng Kinh Hán dịch có Quảng bản Đại Luật của Tỳ kheo giớiTỳ kheo ni giới đến bốn năm trăm quyển, đó là chưa kể đến phần chú sớ, trứ thuật của Lịch đại Tổ sư. Hai năm đầu tiên tôi duyệt Luật tạng ở Đài Nam, tôi cũng đặt trọng tâm chú ý vào trong Quảng Luật của Tỳ kheo, Tỳ kheo ni; nhưng trong quyển sách này chỉ giới thiệu sơ lược về Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới. Nhân vì: Thứ nhất, đây là một quyển sách có tính cách phổ thông, độc giả phần đông là người tại gia, người tục vị tất tuyệt đối không được xem luật Tỳ kheoTỳ kheo ni; nhưng cũng không cần phải giới thiệu việc xuất gia một cách kỹ càng cho người thế tục. Thứ hai, nói một cách nghiêm chỉnh, trong hoàn cảnh Trung Quốc hiện đại, Tỳ kheoTỳ kheo ni đúng như luật đắc giới và đúng như luật trì giới, đó chẳng phải việc dễ dàng. Thật tâm mà nói, chính tôi cũng chưa thật xứng đáng là một “Tỳ kheo” của Tỳ kheo giới, thậm chí tôi cũng không phải là một Sa di đúng như pháp, tôi chỉ là một Ưu bà tắc hiện tướng xuất gia mà thôi, dẫu cho muốn thực hành đúng như luật cũng khó khăn biết bao! Vì thế, nội dung của thiên này tôi cũng không cổ động độc giả chưa đầy đủ Tỳ kheo, Tỳ kheo ni giới đọc. Đương nhiên, tôi cũng không kịch liệt phản đối.

Đối với sự nghiên cứu Luật Tỳ kheo, Tỳ kheo ni tôi gần như dốc hết toàn bộ tinh lực trong mấy năm, đó là vì tôi muốn từ trong luật tìm ra nguyên nhân suy đồi của Phật giáo Trung Quốc và nhờ đó mà tìm ra phương án chấn hưng Phật giáo Trung Quốc. Vì thế tôi vừa đọc vừa ghi, vừa làm bút ký, khiến cho mỗi một vấn đề quy nạp thành một trung tâm làm thành một thiên tâm đắc và thêm vào đó ý kiến của mình. Phân tích ý kiến những vấn đề ấy cũng chính là làm mới lạ những vấn đề đã “chết” từ nhiều thế kỷ thành ra vấn đề hiện thực của chúng ta. Tôi thử làm sống lại luật điển, không vì cố chấp vào cổ xưa mà không biết canh tân. Bằng không, cũng không cần tôi phải tốn hao giấy mực, vì những trứ tác về Luật xưa nay đã có nhiều người làm rồi. Tuy tôi có cách nhìn của riêng tôi, nhưng vẫn không trái với luật điển, và có thể nói mọi điều ghi ra đều có căn cứ, độc giả có thể tra cứu đối chiếu. Độc giả đọc thiên này rồi có thể tham duyệt hai quyển “Phật Giáo Chế Độ và Sinh Hoạt” và “Phật Giáo Thật Dụng Pháp “cũng của tôi chuyên giới thiệu về các vấn đề trọng yếu của Luật chế.

 

 


 

Chương 1

KHỞI NGUYÊN CỦA

 TỲ KHEOTỲ KHEO NI

 

 I.  VÌ SAO GỌI LÀ TỲ KHEO, TỲ KHEO NI?

Tỳ kheo là dịch âm của Phạn văn Bhiksu, ý nghĩa chủ yếu là “Khất sĩ”. Trên theo “Như Lai” khất cầu Phật pháp để dưỡng dục huệ mạng của pháp thân, dưới hướng về người tục khất cầu cơm áo để nuôi sống sinh mạng của sắc thân, vì thế gọi là Khất sĩ. Ngoài ra còn có các nghĩa: Bố ma, Phá ác, Tịnh mạng, Tịnh trì giới. Nhân vì xuất gia học Phật làm Tỳ kheo là muốn liễu thoát sinh tử, không còn bị sự khuấy nhiễu và chi phối của ma nghiệp cùng ma cảnh; ma vương bớt đi một ma dân để lợi dụngchi phối; cho nên ma cảm thấy sợ hãi vì thế gọi là Bố ma. Tỳ kheo trì giới hay phá được phiền não ác nghiệp, vì thế gọi là Phá ác. Tỳ kheo không làm các nghề buôn bán, trồng trọt, thợ thuyền để mưu sinh, mà chỉ thanh tịnh khất thực để tự sống, vì thế gọi là Tịnh mạng. Tỳ kheo đem cả hình tướng, thọ mạng của suốt cuộc đời mình kiên trì giới luật thanh tịnh, vì thế gọi là Tịnh trì giới.

Đồng âm dịch khác của Tỳ kheo còn có Tỳ khưu, Bật sô, Bí sô. Trong chú sớ của Cổ đức Trung Quốc có người cho rằng Bí sô là tên của một lọai cỏ, căn cứ vào truyền thuyết, loại cỏ này có năm đức tính đăc biệt:

1. Thể tánh mềm mại.

2. Bò ra bên ngoài.

3. Hương thơm bay xa.

4. Trị được đau nhức.

5. Không tránh ánh sáng mặt trời.

Vì thế, lấy làm tên gọi của người xuất gia. Kỳ thật, theo sự nghiên cứu của các học giả thời gần đây, sự giải thích này chỉ là theo tưởng tượng, không chính xác. Bí sô là cựu dịch, Tỳ kheotân dịch, từ nguyên văn chữ Phạn dịch ra, chứ không có căn cứ vào tên lọai cỏ nào cả. Lại có người nói “Đức tỷ Khổng Khưu” nên gọi là “Tỳ khưu”, lại càng không đúng.

Tỳ kheo ni là dịch âm của Phạn văn Bhiksuni ý nghĩa của nó cùng Tỳ kheo tương đồng, chỉ dùng âm “ni” biểu thị nữ tánh. Tỳ kheo ni cũng có nghĩa là nữ Tỳ kheo hoặc nữ khất sĩ. Trên phương diện dịch âm khác còn có Tỳ khưu ni, Bật sô ni, Bí sô ni.

Trong Phật giáo nói ba đời chư Phật đều có 7 hoặc 9 chúng đệ tử tăng tục nam nữ. Tỳ kheo đứng đầu 7 chúng. Tỳ kheo ni kế Tỳ kheo, đây là hai bậc chủ lực cốt cán trong Phật giáo đồ. Thời Đức Phật tại thế, hoạt động của Phật giáo lấy Đức Phật làm trung tâm. Sau khi Phật diệt độ, hoạt động của Phật giáo lấy người xuất gia làm trung tâm. Đệ tử tại gia lấy Tăng đoàn xuất gia làm trung tâm. Nếu như khôngTỳ kheo, Tỳ kheo ni, sự trụ thế của Phật giáo sẽ mất đi giá trị của tôn giáo, mà chỉ có giá trị của triết học hoặc học thuyết văn hóa.

II. SỰ XUẤT HIỆN CỦA TỲ KHEOTỲ KHEO NI

Trên thế giới, chúng ta không còn nghi ngờ gì nữa về sự xuất hiện của Tỳ kheoTỳ kheo ni là do hơn 2.500 năm về trước, trong nhân loại xuất hiện một ngôi sao sáng, đó là Đức Phật Thích Ca Thế Tôn cứu người, cứu đời và cứu tất cả chúng sinh.

Phật giáo có những danh từ dùng theo ngữ vựng sẵn có của Ấn Độ với nội dung mới mẻ, như tên gọi của bốn chúng đệ tử, có điều dường như lấy từ một phương thức giống nhau mà ra. Tỷ như trong Ngũ Phần Luật có 11 thứ Tỳ kheo; trong đó, Khất Tỳ kheo không phải là Tỳ kheo đúng như pháp của Phật giáo. Nhưng chúng ta có thể khẳng định nghĩa bao hàm của 7 chúng Phật tử hoàn toàn bất đồng với đồ chúng ngoại đạo. Chính ngoại đạo cũng chưa có thể đem thứ bậc của đồ chúng họ phân ra được kỹ lưỡng và cẩn thận như thế.

Căn cứ trong Ngũ Phần Luật quyển 15 nói: Sau khi Phật thành đạo, đầu tiên ngài nhận sự cúng dường của hai người lái buôn tên Ly Vị và Ba Ly, rồi dạy hai người này thọ nhị tự quy y: Quy y Phật, quy y Pháp. Phật lại cho con gái của Bà la môn Tư Na là nàng Tu Xà Đà thọ nhị tự quy y. Nhân vì lúc ấy Đức Phật chưa độ 5 thầy Tỳ kheo nên chưa có Tăng bảo để quy y. Đủ thấy sự xuất hiện của Tỳ kheo sau Ưu bà tắcƯu bà di. Nhưng căn cứ vào sự ghi chép của Tứ Phần Luật Thọ Giới Kiền Độ, 7 chúng đệ tử Phật lấy Tỳ kheo làm thượng thủ, cũng vì Tỳ kheo xuất hiện rất sớm. Đó là lần chuyển pháp luân đầu tiên ở vườn Lộc Dã. Trong lần đầu tiên truyền thánh giáo, Phật độ 5 người thị tùng theo Ngài xuất gia ở buổi đầu. Năm người thị tùng này do vua Tịnh Phạn phái đến vừa làm bạn với Thái tử vừa phục vụ Thái tử tu hành. Sau vì Thái tử bỏ sự khổ hạnh cực đoan, làm cho năm người thị tùng hiểu lầm cho rằng Thái tử thoái đạo tâm, vì thế họ khinh thị và ly khai Thái tử. Sau khi Thái tử thành đạo, Ngài nhớ lại năm Tỳ kheo này làm việc khổ nhọc, không kể lạnh nóng hầu hạ cúng dường, nên trước tiên độ năm người này. Đó là những Tỳ kheo được độ sớm nhất, cũng là năm vị Tỳ kheodanh tiếng hơn hết.

Tỳ kheo ni trong 7 chúng Phật tử địa vị chỉ dưới Tỳ kheo, nhưng Tỳ kheo ni lại xuất hiện rất muộn. Ngày Đức Phật thành đạo cũng là ngày đản sanh của Tôn giả A Nan. Người nữ được xuất gia trong Phật giáo là do sự đồng tình của Tôn giả A Nan và Ngài đứng ra thỉnh cầu Đức Phật chấp nhận. Lúc ấy A Nan đã xuất gia thành Tỳ kheo đang làm thị giả theo bên cạnh Đức Phật. Sau khi thành đạo, Đức Phật thuyết pháp 49 năm, lúc Phật sắp nhập diệt, trong Căn Bản Tạp Sự quyển 37, A Nan cũng tự nói:“Tôi theo Phật hơn 20 năm”. Kinh Trường A Hàm quyển 5 cũng nói: “Sau khi Phật thành đạo 25 năm, Ngài A Nan mới làm thị giả”. Do đây suy ra dưới tòa của Đức Phật có sự hoạt động của Tỳ kheo ni ít nhất cũng trễ hơn sự xuất hiện của Tỳ kheo hơn 20 năm. Nhưng trong Tứ Phần Luật San Bổ Tùy Cơ Yết Ma Tùy Giảng Biệt Lục của Đại sư Hoằng Nhất ghi: “Sau khi Như Lai thành đạo 14 năm. Di mẫu Ái Đạo cầu xuất gia”. Rốt cuộc như thế nào, còn đợi khảo chứng. Nhưng không có gì phải nghi, là bà Đại Ái Đạo, Di mẫu của Đức Phật là một vị đại Tỳ kheo ni sớm nhất và cũng nổi tiếng hơn hết. Căn cứ theo kinh nói: “Đương thời theo bà Đại Ái Đạo xuất gia một lượt có đến 500 người nữ thuộc giai cấp quý tộc dòng họ Thích”.

II. TỲ KHEOTỲ KHEO NI ĐẦU TIÊNTRUNG QUỐC

Người Trung Quốc biết có Phật giáo, các sử gia tin rằng bắt đầu từ vua Minh Đế đời Đông Hán niên hiệu Vĩnh Bình năm thứ 8 (65 TL). Trong 200 năm đầu, công tác truyền giáo đã phát triển nhanh chóng và phổ cập khắp nhân dân, giáo sĩ truyền giới hầu hết là Phạn Tăng từ Tây Vức sang.Sau khi người Trung Quốc tin Phật rồi, tuy cũng có ghi chép về sự truyền giớithọ giới. Nhưng người Trung Quốc thành Tỳ kheo chính thức đúng như luật là vào đời Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL), do sau khi Ngài Đàm Ma Ca La từ Trung Thiên Trúc đến Lạc Dương của Trung Quốc kiến lập pháp Yết ma thọ giới.

Trung QuốcTỳ kheo ni là vào đời Lưu Tống niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 7 (430 TL), có Sa môn của nước Kế Tân tên Cầu Na Bạt Ma đến Dương Châu. Lại, vào niên hiệu Gia Nguyên năm thứ 10 có Tăng Già Bạt Ma đến Dương Châu, đương thời có hai Tỳ kheo ni người nước Sư Tử ( Tích Lan) trước sau đến, từ đó bắt đầu kiến lập luật thống của Ni giới Trung Quốc. Đủ thấy Tỳ kheo ni của Trung Quốc xuất hiện trễ hơn Tỳ kheo 180 năm của lịch sử. Lúc ấy có hai bộ Tăng để truyền thọ Tỳ kheo ni giới hay không cũng rất khó suy định.

Những tư liệu kể trên rút ra từ Hành Sự Sao của Luật sư Đạo Tuyên. Căn cứ vào sự nghiên cứu gần đây của Pháp sư Trúc Ma nói: “Tại Trung Quốc, người nữ học Phật xuất gia rất sớm, chiếu theo bốn quyển Tỳ kheo ni Truyện của Pháp sư Bảo Sướng đời Lương, trong ấy biên chép từ đời Tấn đến đời Lương có 74 ni được đưa vào truyện mà Thích Tịnh Kiểm là một Tỳ kheo ni đầu tiên ở Trung Quốc”. (Hải Triều Âm quyển 43, tháng 10). Chúng ta xem trong Tỳ kheo ni Truyện thấy Tỳ kheo ni Tịnh Kiểm vào niên hiệu Kiến Hưng đời Tấn Mẫn Đế (313-316), nhân vào trong một ngôi chùa ở cửa Tây cung thành nghe Sa môn Phát Thỉ giảng kinh rồi phát tâm xuất gia.

Nhưng không lý tưởng cho lắm, vì vị Tỳ kheo ni đầu tiên của Trung Quốc trực tiếp ở trong Tỳ kheo Tăng thọ Tỳ kheo ni giới. Tịnh Kiểm trước thọ thập giới nơi Sa môn Trí Sơn ở Tây thành; sau đó, vào niên hiệu Thăng Bình nguyên niên đời Đông Tấn Mục Đế (357 TL): “Đi thuyền đến đất Tứ, bốn người là Tịnh Kiểm…đồng đăng đàn theo Đại Tăng để thọ Cụ túc giới”. Thời đại này so với Hành Sự Sao ghi chép sớm hơn 76 năm. Tịnh Kiểm phát tâm xuất gia, 40 năm sau mới thọ Cụ túc giới, đủ thấy sự khó khăn của việc cầu giới.

Nếu từ trong Cao Tăng Truyện tìm căn cứ lịch sử Cao Tăng Trung Quốc lại sớm hơn 70 năm. Vì trong Lương Cao Tăng Truyện ghi vị Sa môn đầu tiên của Trung Quốc Nghiêm Phật Điều. Trong Lương Cao Tăng Truyện quyển 1 nói: “Lúc ấy lại có Ưu bà tắc An Huyền, người nước An Tức”, “Cũng vào cuối đời Hán Linh Đế du lịch Lạc Dương”, “An Huyền và Sa môn Nghiêm Phật Điều cùng dịch Kinh Pháp Cảnh. An Huyền miệng dịch Phạn văn, Phật Điều bút thọ”, “Phật Điều vốn là người quê ở Lâm Hoài”.

Theo đoạn sử này chúng ta thấy Nghiêm Phật Điều là người Trung Quốc quê ở Lâm Hoài, nay thuộc Tây Bắc huyện Hu Di thuộc tỉnh An Huy. Vào cuối niên hiệu Hán Linh Đế, Phật Điều cùng với một cư sĩ tên An Huyền của nước An Tức cùng dịch Kinh Pháp Cảnh, thân phận của Nghiêm Phật Điều lúc ấySa môn. Cuối niên hiệu Hán Linh Đế là năm 189 TL, vì thế so với Tào Ngụy niên hiệu Gia Bình năm thứ 2 (250 TL) sớm hơn 70 năm.

Nghiêm Phật Điều dù có sử khảo chứng là một vị Cao tăng đầu tiên của Trung Quốc, nhưng Phật Điều có phải là vị Tỳ kheo đầu tiên của Trung Quốc hay không, điều đó không được biết. Nhân vì Lương Cao Tăng Truyện khi đề cập đến Nghiêm Phật Điều vài câu trong truyện Chi Lâu Ca Sấm, chỉ nói Phật Điều là Sa môn, chưa nói có phải là Tỳ kheo hay không.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33331)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11322)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30426)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30452)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 8003)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12231)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12275)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11632)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12869)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34828)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10771)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10543)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10739)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10485)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13101)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21879)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7144)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12790)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12816)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16555)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13888)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16619)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12150)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13861)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14346)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9229)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11771)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11293)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16361)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14377)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16216)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12104)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11813)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15692)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11535)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14038)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12029)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12685)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15012)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11979)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13148)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14576)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20750)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13250)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10984)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20739)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14385)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20417)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17680)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14045)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31875)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12033)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant