Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

Chương 6: Sau Khi Thọ Bồ Tát Giới

12 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8609)
Chương 6: Sau Khi Thọ Bồ Tát Giới

CƯƠNG YẾU GIỚI LUẬT
Hòa Thượng Thánh Nghiêm
Thích Nữ Tuệ Đăng dịch
Nhà xuất bản Thời Đại 2010

Thiên thứ bảy: Bồ Tát Giới Cương Yếu
Chương 6: Sau Khi Thọ Bồ Tát Giới

 I. TRÌ PHẠMĐẮC THẤT CỦA BỒ TÁT GIỚI

Đã thọ Bồ tát giới rồi, phải hiểu rõ vấn đề để trì phạmđắc thất. Chỗ bất đồng lớn nhất của Bồ tát giớiThanh văn (Tiểu thừa) giới có hai điểm: Một là đối tượng trì giới, hai là thời gian thọ trì.

Chương trước đã nói sơ lược, Bồ tát tuy trì một giới, công đức còn lớn hơn Tiểu thừa trì cụ túc giới, vì mỗi giới của Bồ tát là “Vô tận giới”. Trì một giới tức là ở trên phần của tất cả chúng sinh được công đức trì giới cũng vô tận; vì thế, sự lớn lao của công đức thọ trì Bồ tát giới không có pháp nào tỷ dụ được. Thế nên, Kinh Anh Lạc quyển hạ nói: “Pháp sư hay ở trong tất cả quốc độ giáo hóa một người xuất gia thọ Bồ tát giới, phước của Pháp sư này hơn tạo 8 vạn 4 ngàn tháp”.

Lại nói: “Người thọ giới này được vào trong số Bồ tát ở cõi chư Phật, vượt qua cái khổ ba kiếp sinh tử” Lại nói: “Có mà phạm, còn hơn không có không phạm. Có mà phạm gọi là Bồ tát, không có không phạm gọi là ngọai đạo”.

Đủ biết công đức giáo hóa người khác xuất gia thọ Bồ tát giới so với công đức tự mình thọ Bồ tát giới lại càng lớn hơn. Có người cho rằng thọ giới cố nhiên công đức rất lớn, tội lỗi của phạm giới cũng rất lớn, chỉ sợ thọ giới rồi mà không thể kiên trì giữ gìn cho không phạm, vì thế không dám thọ giới, nhưng ở đây đã nói rõ: “Có mà phạm còn hơn không có không phạm “Tại sao vậy? Đây là công đức tác dụng của Bồ tát giới, bởi vì trì giớigiữ gìn đối với tất cả chúng sinh. Tỷ như phạm giới sát sanh, giả sử mỗi ngày giết, lúc nào cũng giết, cũng không thể giết hết chúng sinh; giết một chúng sinh chỉ ở trên thân một chúng sinh đắc tội. Vì thế lại nói: “Có phạm gọi là Bồ tát, không phạm gọi là ngọai đạo. Lại gọi Bồ tát giới là “42 pháp Hiền thánh”, nghĩa là Bồ tát của 42 ngôi vị (30 Hiền vị thêm 12 Thánh vị) là do thọ trì Bồ tát giới mà được. Vì thế Kinh Hoa Nghiêm nói: “Giới là gốc Vô thượng Bồ đề”. Kinh Phạm Võng nói: “Chúng Bồ tát nhiều như vi trần do giới này thành Chánh giác”.

Vấn đề thứ hai là thời gian thọ trì, Tiểu thừa giới có năm thứ nhân duyên xả, mất giới thể: 1. Mạng chung (chết), 2. Hai hình (bộ sinh dục nam nữ biến tánh), 3. Đọan thiện căn , 4. Tác pháp (đối với Tỳ kheo đồng pháp hiểu lời nói cho đến một người tục tuyên bố xả giới), 5. Phạm giới trọng (phạm 4 giới căn bản). Nhưng Bồ tát thì bất đồng. Bồ tát giới không phải là “suốt đời thọ trì “mà là tận vị lai tế thọ trì, vì thế mạng chung không xả giới. Bồ tát không cự tuyệt người tánh tội và biến tánh, vì thế, người hai hình không mất giới. Bồ tát giới chỉ có hai trường hợp mất giới: Một là phạm giới trọng, hai là cố ý xả Bồ đề tâm. Phạm giới trọng có hai lọai: Một là phá trọng giới, là do thượng phẩm phiền não triền phạm (như cố ý giết người), hai là ô trọng giới, là do trung phẩm phiền não triền phạm (như lầm giết người, không cố ýngộ sát). Phá trọng giới thì mất Bồ tát giới, ô trọng giới còn có thể y pháp sám hối. Nói về thượng phẩm phiền não triền phạm, trong Luận Du già nói: “Nếu Bồ tát hủy phạm bốn pháp tha thắng xứ, luôn luôn hiện hành, không biết hổ thẹn, lại còn rất ưa thích, cho đó là công đức, phải biết đây gọi là thượng phẩm triền phạm”. Cố xả bỏ đại Bồ đề tâm tức là tuyên bố với người khác rằng: Tôi không làm Bồ tát nữa hoặc không tin có Bồ tát hạnh, hoặc cho rằng Đại thừa không hay bằng Tiểu thừa và không học pháp Đại thừa cho đến không tin Phật pháp mà tin ngọai đạo. Đây đều thành nhân duyên xả Bồ tát giới.

Ưu bà tắc Giới Kinh quyển 7 nói : “Xả giới có 6 lọai: 1. Lúc đọan thiện căn, 2. Lúc được 2 căn nam nữ, 3. Lúc xả thọ mạng (chết ), 4. Lúc thọ ác giới (như phát thệ làm chức nghiệp hung thủ), 5. Lúc xả giới, 6. Lúc xả thân Dục giới”. Nhưng chúng ta đã nói qua, Ưu bà tắc giới không thể xem là Bồ tát giới, vì thế nó có một cách nói riêng biệt.

Trên thực tế, Kinh Anh Lạc nói : “Bồ tát giới là có phạm không mất”. Sau khi đã thọ Bồ tát giới, đời đời cho đến thành Phật đều vĩnh viễn theo nhau, bởi vì giới thể là một thứ vô lậu sắc pháp (thể vật chất), không hình trạng, không biểu tượng. Sau khi nó được huân trên bản tánh lý thể của chúng ta, chỉ có thể bị ngăn che chứ không thể bị thất lạc. Nói phạm giới trọng thì mất giới là nói vì bị ngăn che của pháp ác mà mất đi công năng của giới thể, chứ không phải là giới thể trên bản tánh lý thể của chúng ta bị thất lạc, đây là điều cần phải hiểu rõ. Vì thế, Kinh Phạm Võng cho người phạm mười giới trọng ở trước tượng Phật sám hối tội lỗi, thấy hảo tướng được thọ giới lại. Kinh Anh Lạc nói thẳng: Mười giới trọng có phạm, không có sám hối, nhưng được cho thọ lại”. Du già cũng nói: “Từ thượng phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên, mất giới luật nghi, phải thọ lại”. Ở đây sở dĩ bảo “thọ lại” là nhờ sức Phật, Bồ tát bên ngoài dẫn phát giới thể đã được huân từ trước khiến cho khôi phục lại công năng của giới lực mà thôi.

Chính vì Bồ tát giớitận vị lai tế thọ trì, nên sau khi chuyển sinh, đa số chúng sinh tuy không nhớ được mình đã tận thọ giới, dù công năng của giới đã ẩn mất, nhưng giới thể ấy vẫn tồn tại trong tánh thể, vì thế vẫn có thể gặp duyên mà “tăng ích thọ giới” (thọ giới nữa). Nếu như chuyển sinh mà không có duyên thọ lại cho đến cũng không nhớ mình đã từng thọ, công năng của giới thể này vẫn sẽ có cơ hội hiển hiện, chỗ gọi là thiện căn, thì đây cũng chính là một thứ thiện căn.

Nhưng Kinh Anh Lạc nói: “Giới thể của Bồ tát phàm thánh, đều lấy tâm thể, thế nên tâm tận thì giới cũng tận, tâm vô tận thì giới cũng vô tận”. Có người thấy thế bèn cho rằng: Giới thểtâm pháp (tinh thần) mà không phải sắc pháp (vật chất). Sự thật không phải vậy, nói tâm tận và vô tận là chỉ bồ đề tâm, xả Bồ đề tâm là tâm tận, công năng giới thể cũng tận; phát đại Bồ đề tâm là tâm vô tận, công năng giới thể cũng vô tận . Cho nên tôi cho rằng: Phá trọng giới là giới thể của ta bị ngăn che, xả bỏ Bồ đề nguyện mới là đem vô lậu sắc pháp của giới thể xóa mất

II.  PHÁP HỐI QUÁ CỦA BỒ TÁT

Phạm trọng giới, Kinh Anh Lạc nói: “Có phạm, không có hối” là không thể hối quá. Điều giới khinh thứ 41 của Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm 10 giới trọng phải dạy sám hối: ở trước hình tượng Phật Bồ tát ngày đêm 6 thời tụng 10 giới trọng, 48 giới khinh, siêng năng khó nhọc, lễ lạy tam thế ngàn Phật cầu được thấy hảo tướng. Nếu 7 ngày, 14 ngày, 21 ngày cho đến 1 năm phải thấy hảo tướng. Hảo tướng là thấy Phật đến xoa đầu, thấy ánh sáng, thấy bông hoa, các tướng lạ bèn đươc diệt tội”. Về Phạm giới khinh thì Kinh Phạm Võng nói: “Nếu phạm 48 giới khinh, đối thú sám hối tội diệt”.

Phương pháp sám hối giới trọng chỉ thấy một thứ như thế. Sám hối giới khinh, Phạm Võng chỉ nói: “Đối thú sám”. Anh Lạc cũng chỉ nói: “Được cho đối thú sám hối diệt tội” Còn làm thế nào để đối thú sám hối? Điều văn của Du già Giới Bổn có nói như sau:

“Nếu có vi phạm, phải đúng như pháp mau mau hối trừ để được thanh tịnh trở lại.

Như vậy, tất cả điều Bồ tát vi phạm phải biết đều thuộc về ác tác, phải hướng về Bổ đặc già la (hữu tình chúng sinh) có năng lực, dùng lời nói biểu đạt được nghĩa, hay giác, hay thọ Đại thừa, Tiểu thừaphát lồ sám hối diệt tội.

Nếu trung phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên, phải đối trước ba Bổ đặc già la, hoặc nhiều hơn số đó, phải làm như pháp phát lồ trừ ác, trước phải thuật lại việc đã phạm, và bạch như vầy :”Trưởng lão! Chuyên chí”; hoặc nói: “Đại đức! Con tên là…vi việt pháp Bồ tát Tỳ nại đa, như pháp thuật lại sự việc phạm tội ác tác. “Ngòai ra, như pháp Bí sô phát lồ sám hối diệt tội ác tác, cũng phải nói như vậy.

Nếu hạ phẩm triền phạm pháp tha thắng xứ như trên và những sự vi phạm khác phải phát lồ trước một Bồ đặc già la, pháp sám hối cũng giống như trước

Nếu không tùy thuận Bổ đặc già la để phát lồ hối trừ tội đã phạm, bây giờ Bồ tát đem tâm ý ưa thích thanh tịnh , khởi tâm tự thệ: Tôi sẽ quyết định phòng giữ đương lai không phạm lại nữa. Như vậy đối với tội phạm, được thanh tịnh trở lại”.

Căn cứ vào sự thuyết minh này và bộ Bồ tát Giới Thọ Tùy Cương Yếu Biểu của Đại sư Hoằng Nhất, pháp hối quá của Bồ tát có thể liệt vào biểu đồ như sau:

 blank

Bất luận giới trọng hay giới khinh, phạm giới đều có hai tội căn bản và phương tiện bất đồng. Căn bản là tội đã tọai, còn phương tiện là chuẩn bị hoặc tiến hành phạm giới mà chưa hòan thành sự thật phạm giới. Đối tượng của hối tội, tốt nhất là chúng Bồ tát thanh tịnh đồng pháp; nếu khôngBồ tát đối với Tiểu thừa Tỳ kheo sám hối cũng đươc. Sám pháp phân làm ba lọai :Một là đối với 4 người (Du già giới Bổn nói 3 người )hoặc 4 người trở lên sám. Hai là đối với một người sám. Ba là tự trách tâm sám .Những lời tác bạch đối với 4 người sám và 1 người sám đồng. Vì thế, lời tác bạch sám hối phân làm hai lọai: một là đối với người bạch sám, hai là tự một mình bạch sám.

1. Sám pháp đối người

Lúc sám phải đủ oai nghi, quỳ gối chấp tay bạch với người thọ sám:

Chư Đại đức nhất tâm niệm, con là…cố (nói tên giới đã phạm) phạm Ba la di tội.Nay hướng Đại đức phát lồ sám hối không dám làm nữa, xin Đại đức ức niệm cho con (nói 3 lần).

Sám hối chủ hoặc người thọ sám quở ttrách rằng: “Tự trách tâm ông, sinh nhàm lìa”.

Người sám đáp: Xin vâng.

2. Sám pháp trách tâm

Người sám phải đủ oai nghi, sinh tâm hổ thẹn, đối với chính mình tự bạch: “Con là…..cố (nói tên giới đã phạm) phạm Ba la di, khinh phương tiện (hoặc khinh cấu tội), con nay trách tâm hối quá”. (nói 1 lần).

Nếu có phạm giới phải tùy phạm tùy hối. Nếu như việc gấp hoặc số người không đủ, ở mỗi nửa tháng thuyết giới Bố tát cần phải sám hối cho thanh tịnh. Bằng không, có phạm bất tịnh mà nghe thuyết giới bèn thành tội phú tàng. (che giấu).

Thiện Giới Kinh nói: “Nếu Tỳ kheo phạm Ba dật đề không thẹn, không hối, nghe Bồ tát giới đắc tội Thâu lan giá. Nếu phạm Thâu lan giá không thẹn, không hối, nghe Bồ tát giới thì đắc tội Tăng tàn.

Nếu phạm Tăng tàn, không thẹn không hối, nghe Bồ tát giới thì đắc tội Ba la di. Đây là duyên cớ Bồ tát phú tàng, tội nặng hơn bổn tội. Đây là một lệ của Bồ tát giới nặng hơn Thanh văn giới, và đây cũng là một sự kiện mà người thọ Bồ tát giới không thể không biết.

 III.  THUYẾT GIỚI BỐ TÁT CỦA BỒ TÁT

Cuối đời Minh, Luật sư Hoằng Tán trong Phạm Võng Lược Sớ nói:

“Bồ tát không có pháp yết ma, lúc Bồ tát thọ giới cũng không có yết ma” Lại nói: “Bồ tát thuyết giới không gọi là thuyết giới yết ma, chỉ gọi là thuyết giới Bố tát”. Lại nói: “Người có tội chưa sám và người chưa thọ Bồ tát giới đều không cho cùng làm Bố tát”.

Pháp yết ma là một thứ pháp nghị sự riêng có của Thanh văn tăng, cũng là một thứ quỹ tắc Tăng đòan trụ trì, Phât pháp trụ thế. Bồ táttrách nhiệm hóa độ thế gian, có trách nhiệm hộ trì Phật pháp mà ít có trách nhiệm chủ trì Phật giáo. Nếu như Bồ tát Tỳ kheo thì vẫn lấy thân phận Tỳ kheo trụ trì Phật giáo, chứ không phải thân phận Bồ tát trụ trì Phật giáo

Bố tát là dịch âm của Phạn ngữ: Posadha, có nghĩa là thanh tịnh tam nghiệptrưởng dưỡng công đức còn có nghĩa là Tịnh trụ. Thuyết giới nửa tháng một lần Đại thừa, Tiểu thừa giống nhau, nhưng Tiểu thừa gọi là Yết ma, Đại thừa gọi là Bố tát.

Kinh Phạm Võng nói: “Phật bảo các Bồ tát rằng: Nay ta cứ mỗi nửa tháng tự tụng giới pháp chư Phật, các ông và tất cả Bồ tát phát tâm cũng tụng”. Lại nói: “Nếu người thọ Bồ tát giới không tụng giới này thì không phải là Bồ tát, không phải chủng tử Phật”.Điều giới khinh thứ 37 của Phạm Võng cũng nói: “Nếu ngày Bố tát, tân học Bồ tát mỗi nửa tháng Bố tát, lúc tụng 10 giới trọng 48 giới khinh phải ở trước hình tượng Phật, Bồ tát, một người Bố tát, một người tụng; nếu hai người, ba người cho đến trăm ngàn người cũng một người tụng. Người tụng ngồi cao, người nghe ngồi thấp”. Điều giới khinh thứ 38 lại nói: “Phải ngồi thứ tự đúng như pháp, người thọ giới trước ngồi trước, người thọ giới sau ngồi sau”. Đây là nói tân học Bồ tát phải nửa tháng Bố tát, vì sám tội để thanh tịnh tam nghiệp, nhờ tụng giới mà trưởng dưỡng công đức. Nhưng đối với sự tụng giới không hạn cuộc nửa tháng một lần, có thể mỗi ngày tụng cho đến luôn luôn tụng, tối thiểu là nửa tháng tụng một lần, nếu không tụng thì “Không phải là Bồ tát, chẳng phải là chủng tử Phật”.

Veà pháp Bố tát của Bồ tát giới, đại khái đồng với thuyết giới yết ma của Thanh văn. Nếu đông người, vị Đương trị đánh bảng họp chúng, Duy na kiểm điểm số người, rồi bảo người chưa phát tâm Bồ tát, chưa thọ Bồ tát giới ra. Kế đó thỉnh Thượng tọa dâng hương, lên tòa .Kế tiếp hỏi có phạm, không phạm .có hối, không hối, rồi thỉnh người tụng rành rẽ, âm thanh rõ ràng lên tòa cao tụng giới. Nghi tiết đầy đủ có thể tham khảo pháp Bố tát ghi trong Thiên Thai Bố tát Giới Sớ quyển hạ của ngài Minh Khoáng. Nếu như một người tụng, Bồ tát xuất gia phải đắp 3 y cà-sa cửu điều, thất điều, ngũ điều. Sau khi ở trước Phật dâng hương lễ bái xong, quỳ gối trước Phật để tụng, hoặc ngồi tụng , đây là việc rất dễ làm.

Đối với vấn đề tụng giới của Bồ tát Tỳ kheoBồ tát tại gia, trong Giới Sớ của Ngài Nghĩa Tịch có nói: “Bồ tát Tăng Ni nửa tháng phải hai bên Bố tát tụng hai bổn Đại, Tiểu; không tụng phạm tội khinh cấu, Bồ tát tại gia nếu trong nhà có tịnh thất nửa tháng phải tự tụng. Nếu khôngtịnh thất, mà trong 1 do tuần (10 km đến 15 km) có tự viện, tịnh xá làm Bồ tát Bố tát phải qua nghe, nếu không đi nghe, phạm khinh cấu .Nếu trong nhà huyên náo và trong 1 do tuần không có Bồ tát Bố tát tập hội thì không phạm”.

Thiên này viết đến đây là kết thúc, do tài hèn sức kém, tuy viết hơn 4 vạn chữ mà vẫn chưa trình bày được hết nội dung của Bồ tát giới. Chúng tôi chỉ mong độc giả đọc xong thiên này có một khái niệm tổng quát về Bồ tát giới.

Trung Quốc chú sớ nhiều đời nghiên cứu về Bồ tát giới phần đông lấy Phạm Võng Kinh Giới Bổn làm chủ yếu, hiện còn Phạm Võng Chú Sớ trong Đại Chánh Tạng và Tục Tạng chữ Vạn có ước chừng 20 loại, độc giả nếu thích có thể căn cứ vào kết cấu bố cục của thiên sách này chỉ dẫn để tự nghiên cứu thêm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12473)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10343)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12321)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11622)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28779)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12026)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 12992)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11431)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12344)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17428)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 52989)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35468)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21362)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10665)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19215)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12395)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26009)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13302)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14354)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16065)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13714)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16821)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17550)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13109)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12510)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11599)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11583)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14488)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20437)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 18961)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19530)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18617)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12171)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12286)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13831)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 14993)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15023)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 13972)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15505)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11380)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17156)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14955)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20170)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14601)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13822)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11691)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15035)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 12977)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22843)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14541)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11639)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13146)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16853)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18321)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11925)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11487)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15827)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12862)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18885)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18407)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant