Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh

21 Tháng Tư 201100:00(Xem: 15450)
Tắc thứ Sáu Mươi Tám: Ngưỡng Sơn Hỏi Tam Thánh

BÍCH NHAM LỤC
(MỘT TRĂM CÔNG ÁN THIỀN TÔNG)
Thích Mãn Giác dịch
Chùa Việt Nam Trung Tâm Văn Hoá Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ 1988

Phần 7

TẮC THỨ SÁU MƯƠI TÁM

NGƯỠNG SƠN HỎI TAM THÁNH

 

THÙY: Lật thiên qua, xô trục đất; bắt cọp tê, phân rồng rắn. Phải là một tay hoạt bát mới có thể mỗi câu đều tương hợp, mỗi cơ đếu tương ứng. Song từ xưa đến giờ có ai được như thế? Thử nêu lên xem.

CỬ:Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh, "Thầy tên gì?” Tam Thánh nói, “Huệ Tịch.” Ngưỡng Sơn nói, “Huệ Tịch là tôi.” Tam Thánh nói, “Tên tôi là Huệ Nhiên.” Ngưỡng Sơn cười ầm lên.

BÌNH: Tam Thánh là bậc tôn túc trong dòng Lâm Tế. Từ nhỏ đã có khả năng xuất chúng. Thầy ta có đủ đại cơ đại dụng; lúc ở trong chúng hội, rất là hiên ngang lững lẫy, tên tuổi vang rền khắp nơi. Sau đó thầy ta từ giã Lâm Tế rồi đi vân du khắp miền Hoài Nam và Hải Châu. Các tự viện khắp nơi đều đãi Tam Thánh như thể khách quí. Tam Thánh đi từ bắc xuống nam, thoạt tiên đến gặp Tuyết Phong hỏi rằng, “Con cá vàng đã thoát lưới, chẳng hay lấy gì làm đồ ăn?” Tuyết Phong nói, “Đợi khi nào ông ra khỏi lưới tôi sẽ nói cho ông nghe.” Tam Thánh nói, “Là bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà không nói được lấy một câu.” Tuyết Phong nói, “Việc trụ trì của lão tăng bề bộn quá.” Lúc Tuyết PhongTam Thánh đi về phía trang viên của Tự viện, giữa đường gặp một bầy khỉ, Tuyết Phong bèn nói,” Mỗi con đều mang một cổ kính.” Tam Thánh nói, “Bao nhiêu kiếp không có tên, cớ sao lại gọi là cổ kính?” Tuyết Phong nói, “Đã có tì vết rồi.” Tam Thánh nói, “Bậc thiện tri thức của một ngàn năm trăm người mà không nói lấy được một câu.” Tuyết Phong nói, “Có lỗi thật, việc trụ trì của lão tăng bề bộn quá.”

Sau đó Tam Thánh đến gặp Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn rất yêu cái linh lợi của Tam Thánh cho nên để cho ngồi chỗ danh dự. Một hôm có vị quan nhân đến tham kiến Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn nói, “Quang ở chức vị nào vậy?” Vị quan nói, “Quan tòa.” Ngưỡng Sơnphất trần lên nói, “Có xử được cái này không?” Vị quan kia không nói gì được. Mọi người trong chúng hội đều bình phẩm song chẳng ai khế hợp với ý của Ngưỡng Sơn cả. Lúc ấy Tam Thánh bệnh nằm trong Diên Thọ Đường; Ngưỡng Sơn sai thị giả đem lời ấy đến hỏi Tam Thánh. Tam Thánh nói, “Hòa thượng có việc rồi.” Ngưỡng Sơn lại sai thị giả đến hỏi, “Chưa rỏ là việc gì.” Tam Thánh nói, “Phạm nữa là không dung thứ đâu.” Ngưỡng Sơn rất là bằng lòng.

Bách Trượng lúc ấy đã trao lại thiền bảnbồ đoàn cho Hoàng Bá, trụ trượngphất trần cho Qui Sơn; Qui Sơn sau đó trao lại cho Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn rất là ưng ý với Tam Thánh, một hôm Tam Thánh từ biệt, Ngưỡng Sơn lấy trụ trượngphất trần ra trao lạo cho Tam Thánh. Tam Thánh nói, “Kẻ hèn này đã có thầy rồi.” Ngưỡng Sơn hỏi rõ, thì ra đó là đệ tử của Lâm Tế.

Lúc Ngưỡng Sơn hỏi Tam Thánh, “Thầy tên gì?” Ngưỡng Sơn không thể nào mà lại chẳng biết tên Tam Thánh, tại sao lại vẫn cứ đi hỏi như thế? ấy là vì các bậc chuyên gia muốn thử thách thiên hạ để tìm hiểu họ cho rõ ràng. Một câu hỏi chỉ tựa như hỏi cho có rằng, “Thầy tên gì?” và lại hỏi một cách chẳng có gì so đo. Tại sao Tam Thánh không nói “Huệ Nhiên” mà lại đi nói “Huệ Tịch”? Nhìn xem những người có mắt, tự nhiên là không giống (những kẻ bình thường.) Tam Thánh hành sư như thế chẳng có gì là điên đảo tuy rằng thầy ta giựt cờ cướp trống. Ý của thầy ta ở ngoài ngôn ngữ của Ngưỡng Sơn. Những lời này không theo thường tình , rất khó mà rờ rẫm. Phương pháp của con người này có thể cứu sống thiên hạ, cho nên mới có câu nói, “Thầy ta tham câu sống mà không tham câu chết.” Nếu như tuân theo thường tình, ắt chẳng làm cho thiên hạ ngồi nghỉ được.

Nhìn xem các cổ nhân niệm Đạo như thế. Dùng hết tinh thần của mình cho nên mới đại ngộ được. Sau khi ngộ rồi, lúc dụng thì lại giống y như thể chưa ngộ vậy đó. Dù sao đi nữa, một lời hay nửa câu của họ cũng chẳng theo thường tình. Tam Thánh biết chỗ cốt yếu của Ngưỡng Sơn cho nên mới nói với thầy ta rằng, “Tên tôi là Huệ Tịch.” Ngưỡng Sơn muốn thu Tam Thánh, rốt cuộc Tam Thánh lại thử Ngưỡng Sơn muốn thu Tam Thánh, rốt cuộc Tam Thánh lại thử Ngưỡng Sơn. Ngưỡng Sơn chỉ còn biết trả đũa bằng cách nói, “Huệ Tịch là tôi.” Đây chính là chỗ thầy ta buông bỏ. Cho nên sau đó Tuyết Đậu mới nói, “Vừa thu vừa buông, đâu là tông chỉ?” Chỉ trong một câu mà thầy ta một lúc tụng ráo hết.

Ngưỡng Sơn cười ầm lên “ Ha ha!” Vừa có quyền vừa có thực, vừa có chiếu vừa có dụng. Bởi vì thầy ta tám hướng lung linh, cho nên chỗ đứng của thầy ta mới được đại tự tại như thế. Tiếng cười này không giống với tiếng cười của Nham Đầu; trong tiếng cười của Nham Đầuđộc dược, song trong tiếng cườinày thì thiên cổ vẫn có gió thổi lạnh căm. Tuyết Đậu tụng rằng:

TỤNG:

Vừa thu vừa buông tông chỉ đâu?

Cưỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ

Cười rồi chẳng biết đi về đâu,

Chỉ là thiên cổ động bi phong.

BÌNH: “ Vừa thu vừa buông tông chỉ đâu?” Buông bỏ thay phiên đóng vai chủ và khách. Ngưỡng Sơn hỏi, “ Thầy tên gì?” Tam Thánh nói, “ Tên tôi là Huệ Tịch.” Đó là đều buông bỏ, Ngưỡng Sơn nói, “ Huệ Tịch là tôi.” Tam Thánh nói,” Tôi tên là Huệ Nhiên.” Đây là đều thu vào. Kỳ thực , đây là cái gọi là “ hô hoán chi cơ.” Thu vào thì mọi người đều thu vào, buông bỏ thì mọi người đều buông bỏ. Tuyết Đậu trong một lúc tụng hết cả. Ý thầy ta muốn nói rằng nếu không buông không thu không hổ tương với nhau thì ông là ông tôi là tôi.

Tất cả chỉ nằm trong bốn chữ, tại sao lại có chìm hiện cuống trải như thế? Cổ nhân nói, “Nếu như ông đứng thì tôi ngồi, nếu như ông ngồi thì tôi đứng. Nếu như chúng mình cùng ngồi cùng đứng, thì chúng mình đều là những kẻ mù.” Đây là đều thu vào đều buông bỏ, có thể coi là tông chỉ.’ Cưỡi cọp cần phải có tuyệt kỹ.” Nếu như các ông có cao phong như vậy cơ biến tối thượng như vậy, thì các ông muốn cưỡi là cưỡi, muốn xuống là xuống. Muốn ngồi trên đầu cọp cũng được mà muốn ngồi trên đuôi cọp cũng được. Cả Tam Thánh lẫn Ngưỡng Sơn đều có cái phong cách này.

“Cưỡi rồi chẳng biết đi về đâu.” Thử nói xem, thầy ra cười cái gì vậy? Giống như thể cơn gió trong lạnh ngắt. Tại sao Tuyết Đậu rốt cuộc lại nói rằng, “Chỉ là thiên cổ động bi phong”? Đây cũng là chết mà không có điếu tang, trong chớp nhoáng đã chú giải hết chỗ các ông. Có điều trong thiên hạ chẳng ai cắn vào được cả, bởi vì họ không hiểu chỗ cốt yếu của Ngưỡng Sơn. Ngay cả sư núi tôi cũng chẳng biết. Các ông có biết chăng?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 29915)
Đây là những điều tôi được nghe hồi Đức Thế Tôn còn cư trú gần thành Xá Vệ, tại tu viện Cấp Cô Độc, trong vườn Kỳ Đà. Hôm đó, trời đã vào khuya...
(Xem: 27205)
Tương Ưng Bộ (Samyutta Nikàya) là bộ kinh thứ ba trong kinh tạng Pàli (Trường bộ, Trung bộ, Tương Ưng bộ, Tăng Chi bộ, và Tiểu bộ). Bộ kinh là một tập hợp các bài kinh dài ngắn không đều...
(Xem: 21802)
Khi chúng ta thẩm tra hoàn cảnh đôi khi buồn rầu, và thỉnh thoảng vui vẻ, chúng ta khám phá ra rằng có nhiều vấn đề liên hệ với điều ấy.
(Xem: 22265)
Ý nghĩa cận sự namcận sự nữ, cần được hiểu là những cư sĩniềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng, trọn đời nguyện phụng sự Tam bảo, luôn luôn sống theo sự hướng dẫn của Tam bảo.
(Xem: 23645)
Đạo Phật được đưa vào nước ta vào khoảng cuối thế kỷ thứ hai do những vị tăng sĩ và những thương gia Ấn Độ và Trung Á tới Việt Nam bằng đường biển Ấn Độ Dương.
(Xem: 20469)
Phật Giáo là đạo Giải Thoát. Giải là cởi mở. Ở đây là "cởi mở" những trói buộc để "thoát" ra khỏi mọi hình thức đau khổ của đời sống.
(Xem: 20076)
Trong 45 năm hoằng pháp độ sinh, Đức Phật đã du hành khắp miền Bắc Ấn độ để giảng dạy con đường giải thoát mà Ngài đã tìm ra. Rất nhiều người đã quy y với Ngài...
(Xem: 21966)
Phật Giáo là một tôn giáo có khoảng 300 triệu tín đồ trên khắp thế giới. Danh từ Phật Giáo (Buddhism) phát nguồn từ chữ "buddhi", có nghĩa "giác ngộ", "thức tỉnh".
(Xem: 24783)
Mục tiêu của Kinh Bát Đại nhân Giác là phát triển trí tuệ, đoạn tận phiền não, ô nhiễm, lậu hoặc để chứng đắc quả vị giải thoát tối hậu. Như quán niệmđại nguyệntrí tuệ phát sanh.
(Xem: 19021)
Khi biên soạn tập sách này, chúng tôi đặc biệt nghĩ đến những Phật tử sơ phát tâmbước đầu tìm hiểu giáo lý của đạo Phật trong một bối cảnh đa văn hoá và nhiều truyền thống tôn giáo.
(Xem: 24796)
Trong nguyên bản tiếng Pāli, sách nói rằng những cuộc đối thoại giữa vua Milinda và ngài Nāgasena đã diễn ra năm trăm năm sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn.
(Xem: 31013)
Tu Ðạo là cần phải "quay trở lại." Nghĩa là gì? Tức là phải nhường cho người việc tốt lành, còn mình thì nhận phần hư xấu--xả tiểu ngã để thành tựu đại ngã.
(Xem: 24018)
Quả khổ chuyển theo nghiệp. Nghiệp chuyển theo tâm. Chỉ cần soi sáng tâm là hết khổ. Vì thế, bức tranh của Vòng luân hồi hay Con quỷ vô thường này rất quan trọng...
(Xem: 27795)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 26559)
Tâm vốn không – lặng, nhơn pháp mà lập danh. Tịnh pháp là người, trời, Thanh văn, Duyên giác, Bố tát và Phật. Nhiễm phápA tu la, bàng sanh, địa ngục, quỉ thú.
(Xem: 21382)
Bộ kinh Milindapanha xuất hiện vào khoảng năm trăm năm sau Phật Niết bàn, do ngài Pitakaculàbhaya ở trung Ấn độ trước thuật bằng tiếng Pàli. Nội dung kể lại những câu hỏi, đáp giữa vua Milinda và tỳ kheo Nàgasena.
(Xem: 23251)
Quyển ''Na-Tiên Tì-kheo Kinh'' là một bộ Luận ghi bằng tiếng Pali, rất nổi danh, được phiên-dịch ra nhiều thứ tiếng: tiếng Hán, tiếng Việt, tiếng Miến, tiếng Thái, tiếng Tích-lan, tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.
(Xem: 38184)
Quyển sách nhỏ này được viết ra nhằm mục đích giới thiệu với quý độc giả đang đi tìm giải thoát và nhất là thích tu thiền, một phương pháp hành thiền mà ít người để ý, đó là pháp Tứ Niệm Xứ.
(Xem: 18818)
Khi mới đến một vùng đất hoang để khai khẩn, mảnh đất đó có thể làm cho ta nản lòng vì cỏ gai và chướng ngại vật đầy dẫy. Ta cần phải đào, phải bứng, phải chặt, phải cày, phải bừa.
(Xem: 18453)
Ma-ha-diễn là pháp tạng sâu xa của chư Phật mười phương ba đời, vì người lợi căn đại công đức mà nói... Thích Thanh Từ
(Xem: 20011)
Tổ Sư thiền Việt Nam đã thất truyền trên hai trăm năm. Đến năm 1977, Hòa thượng hoằng dương Tổ Sư thiền và tổ chức Thiền thất đầu tiên tại Việt Nam.
(Xem: 19073)
Bản văn này chỉ giới thiệu những điểm chủ yếu có liên quan đến triết học Trung Quán một cách hết sức đơn giản, dù vậy, vẫn bao hàm được tất cả mọi yếu điểm cốt lõi của hệ phái Triết học này.
(Xem: 23211)
Viết về một triết học là đặt ra các câu hỏi về những vấn đề được bàn đến trong triết học đó. Trong trường hợp này, chúng ta thử viết một bài nghiên cứu mang tính phê bình về triết học Thế Thân.
(Xem: 23918)
Ở đây, nội dung của tập sách này chỉ giới thiệu một cách khái quát về các thể loại văn học của kinh điển và một số thể loại ngôn ngữ được dùng trong kinh điển.
(Xem: 22848)
Toàn bộ kinh Đại Bát Niết-bàn dày hơn 4500 trang, riêng phần Việt dịch chiếm gần 1700 trang; mỗi đoạn mỗi câu trong đó đều hàm chứa những ý tứ sâu xa huyền diệu không dễ gì hiểu thấu qua một vài lần đọc.
(Xem: 22959)
Chúng sinh đau khổ, trôi lăn trong sinh tử luân hồi cũng chỉ vì cái Ta, cho cái Ta có thật rồi bám víu vào nó. Trong đạo Phật gọi đây là bệnh chấp Ngã.
(Xem: 29622)
Tập Kinh Trung Bộ (Majjhima Nikàya) gồm 152 kinh tất cả, chia thành 3 tập: tập I, gồm 50 Kinh đầu, tập II gồm 50 Kinh tiếp và tập III, gồm 52 Kinh chót.
(Xem: 20657)
Quá khứ không truy tìm Tương lai không ước vọng. Quá khứ đã đoạn tận, Tương lai lại chưa đến...
(Xem: 18743)
Thường thì những mối bận tâm thế tục sẽ chỉ mang lại đau khổthất vọng trong đời này và đời sau. Những sự xuất hiện của sinh tử thì chẳng có gì là bền vững, luôn luôn thay đổi và vô thường...
(Xem: 15870)
Kinh Bát Đại Nhân Giác bố cục thành ba phần: Phần mở đầu chỉ một câu đơn giản như là giới thiệu tám điều giác ngộ; Phần hai là nội dung tám điều giác ngộ ấy...
(Xem: 18878)
Sự tịnh hóa của Kim Cương thừa nói riêng và con đường Kim Cương thừa nói chung căn cứ vào trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không. Nhờ và bằng trí huệ đại lạctrí huệ tánh Không mà tất cả nghiệp lực được tịnh hóa.
(Xem: 19710)
Phật giáo là một sự thực tập để đối trị khổ đau. Phật nói “ta chỉ dạy về khổ đau và vượt thoát khổ đau” [3] . Ðiều này đã được Phật phát biểu trong công thức của bốn sự thực thâm diệu [tứ diệu đế].
(Xem: 20191)
Thế nào gọi là Phật Lý Căn Bản? – Giáo lý chính yếu của Phật giáo, tóm lược các quan điểm trong ba tạng (Tripitaka).
(Xem: 19976)
Khi Đức Phật tỉnh thức bước ra khỏi cơn mê mà chúng ta vẫn còn đang chìm đắm, Ngài đã nhận thức được sự thực rốt ráo của muôn vật y như chân tướng của chúng.
(Xem: 18149)
Hãy dọn tâm trí vô tư để nhìn thấy khoa học, khoa học là đề tài thảo luận của chúng ta. Khoa học là nơi gặp gỡ của chúng ta.
(Xem: 22984)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 34213)
Kinh Pháp Cú (Dhammapada) là một trong 15 quyển kinh thuộc Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikaya) trong Kinh tạng Pali (Suttanta Pitaka). Ðây là một quyển kinh Phật giáo phổ thông nhất...
(Xem: 16446)
Xuất bản lần đầu vào năm 1995 (tái bản 2001), “Phật Giáo và Đạo Đức Sinh Học” (Buddhism and Bioethics) là một đóng góp có ý nghĩa của Damien Keown* cho Phật giáo về một đề tài chưa được giới Phật giáo nghiên cứu nhiều trước đó.
(Xem: 16948)
Luận thuyết được trình bày ở đây, dành cho những người ước muốn rút ra tinh túy của đời người được phú bẩm những nhàn nhã và thuận lợi, là luận thuyết được gọi là Các Giai đoạn của Con Đường Giác ngộ (Lamrim).
(Xem: 39302)
"Con đường Thiền Chỉ Thiền Quán” đã được Ngài Guṇaratana trình bày một cách khúc chiết, rõ ràng có thể giúp cho những ai muốn nghiên cứu tường tận chỗ đồng dị, cộng biệt, sinh khắc của hai pháp môn này...
(Xem: 26124)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 20135)
“Phật giáo khái luận” là một tác phẩm rất có giá trị của cư sĩ Huỳnh Sĩ Phục bên Trung Quốc, lời lẽ tuy vắn tắt, nhưng đã bao hàm tất cả yếu nghĩa của các Tôn hiện hànhTrung Quốc.
(Xem: 18881)
Kinh "Chiếc lưới ái ân" được dịch từ kinh Pháp Cú, Hán Tạng. Chữ "ái ân" nằm ngay trong bài kệ thứ ba của kinh, câu “Nhân vi ân ái hoặc”.
(Xem: 24100)
Có thể nói rằng "Tánh Không luận" là một hệ thống triết học đặc thù của Phật giáo trong thời kỳ phát triển. Sự xuất hiện của nó như là một dấu ngoặc vĩ đại...
(Xem: 29180)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 22928)
Trước khi thực sự bắt đầu nuôi dưỡng điều được gọi là Sáu Hạnh Ba-la-mật, bạn phải phát triển động thái vị tha của tâm thức hay là hành xử của bồ-tát. Bồ-tát là người mà đã hoàn toàn từ bỏ quyền lợi tự ngã của mình...
(Xem: 31001)
Bài văn này được thiền sư Quy Sơn Linh Hựu viết ra nhằm sách tấn việc tu học của đồ chúng, nên gọi là văn cảnh sách, và lấy tên ngài để làm tựa. Từ xưa nay vẫn gọi là “Quy Sơn cảnh sách văn”.
(Xem: 21045)
Chính bộ Kinh quý báu này mở rộng cửa giải thoát cho cả hai hạng người xuất giatại gia nhập vào Pháp Môn Bất Nhị, trở về Bản Tánh Không Hai.
(Xem: 26889)
Duy Ma Cật tức là tên của ông Duy Ma Cật. Mà Duy Ma Cật là chữ Phạn. Trung Hoa dịch là Tịnh Danh. Cũng dịch là Vô Cấu. Tịnh Danh: Chữ tịnh là trong sạch.
(Xem: 20711)
Như ta biết, Tứ diệu đế là bài thuyết pháp đầu tiên của Phật sau khi thành Đạo cho năm anh em A nhã Kiều Trần Như, diễn ra tại vườn Lộc Uyển, về phía bắc thành Ba la nại.
(Xem: 26291)
Thật ra, nếu các bạn không có sự hiểu biết về Tứ diệu đế cũng như chưa tự mình thể nghiệm chân lý của lời dạy này thì các bạn sẽ không thể thực hành Phật pháp.
(Xem: 23361)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
(Xem: 19842)
Muốn có sắc như là sắc, thì người ta phải cộng hay trừ đi sắc với không, chẳng hạn, 1 + 0 = 1. Như vậy không, tức là biệt thể để sắc như là sắc, để không như là không...
(Xem: 24706)
Kinh Duy Ma Cật bất khả tư nghì, tuyệt diệu cùng tột, ý chỉ thâm huyền, chẳng phải lời nói có thể diễn tả. Siêu việt tam không (Nhơn không, Pháp không, Không không)... Tỳ Kheo Thích Duy Lực
(Xem: 30056)
Ðọc vào kinh ta nhận thấy chẳng những hàng xuất gia mới thật hành được Phật đạo, mà Cư sĩ, Bà la môn cho đến mọi tầng lớp dân chúng cũng đều thật hành được Phật đạo.
(Xem: 20248)
“Hãy tu tập An-na-ban-na niệm. Nếu Tỳ-kheo tu tập An-na-ban-na niệm, tu tập nhiều, thân chỉ tức và tâm chỉ tức, có giác, có quán, tịch diệt, thuần nhất, phân minh tưởng, tu tập đầy đủ...
(Xem: 20437)
“Quý vị khất sĩ! Phép quán niệm hơi thở, nếu được phát triển và thực hiện liên tục, sẽ đem lại những thành quảlợi lạc lớn, có thể làm thành tựu bốn lĩnh vực quán niệm (Tứ Niệm Xứ)...
(Xem: 15167)
Kinh Niệm Xứ, Satipattthana Sutta, là một bài kinh vô cùng quan trọng vì kinh này đề cập đến những đề mục hành thiền nhằm phát triển cả hai, tâm Vắng Lặng (Samatha) và trí tuệ Minh Sát (Vipassana).
(Xem: 15853)
Có một thầy trẻ đến đặt một câu hỏi với Đức Thế Tôn liên quan tới vấn đề ái dục và đã được Đức Thế Tôn trả lời câu hỏi đó bằng tám bài kệ.
(Xem: 23935)
Kinh Bách Dụ, một bộ kinh trong Đại Tạng chuyển tải ý nghĩa thâm diệu bằng những câu chuyện thí dụ rất sâu sắc. Biên soạn: Pháp sư Thánh Pháp; Việt dịch: Thích Nữ Viên Thắng; Hiệu đính: Thiện Thuận
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant