Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7

11 Tháng Mười 201000:00(Xem: 10316)
Chương 7

CHƯƠNG 7
BỐN ĐIỀU KHIẾN CHO BỒ TÁT
ĐÁNH MẤT BỒ ĐỀ TÂM

 

7. Bốn Điều Khiến Cho Bồ Tát Đánh Mất Bồ Đề Tâm.

“Này hỡi Ca Diếp (Kasyapa), có bốn điều khiến cho một vị Bồ Tát đánh mất lòng Bồ Đề của mình. Bốn điều ấy là những điều nào?

 1. Lường gạt Thầy dạy đạo của mình, không tôn kính những pháp môn và những Kinh Phật mà mình đã được truyền dạy;

 2. Gây tạo sự ngờ vực không xác đáng và sự ân hận hối tiếc vô cớ vào trong lòng kẻ khác;

 3. Chửi rủa phỉ báng những kẻ cầu đạo Đại Thừa, rồi bêu xấu họ khắp nơi;

 4. Xun xoe nịnh hót và lòng dạ quanh co, không được thẳng thắn thật lòng khi tiếp xúc tùng sự với người đời.

Bồ Đề Tâm (Bodhicitta) là Lòng Bồ Đề, tức là Lòng Giác Ngộ. Hiểu cho trọn vẹn tất cả ý nghĩa phong phú của Bồ Đề Tâm không khác gì phải hiểu toàn diện giáo lý của tất cả Đại Thừa Phật Giáo: lòng thành tâm dũng mãnh đạt tới Giác Ngộ viên mãnphúc lợi mênh mông cho tất cả chúng sinh. Chính Bồ Đề Tâm làm Bồ Tát thành ra Bồ Tát, không có Bồ Tát Tâm thì tất cả Phật giáo sẽ bị tiêu diệt trên mặt đất. Bồ Đề Tâm gồm có hai mặt:

 1. Mặt bình thường: Bồ Đề Tâm được thực hiện qua lòng từ bi.

 2. Mặt phi thường: Bồ Đề Tâm được chứng nhập qua Đại Trí Huệ.

Mặt bình thường chính là phương tiện thiện xảo được cụ thể hóa qua năm ba la mật đầu: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấnthiền định ba la mật.

Về mặt phi thường, đó chính là Bát Nhã ba la mật, tức Không Tính.

Cả hai mặt đều dính líu mật thiết với nhau, như sự liên hệ thiết thân giữa tục đếchân đế. Và sáu ba la mật đầu tương ứng với sáu địa đầu của lộ trình thập địa Bồ Tát; mười ba la mật (sáu ba la mật được phát triển sâu rộng thành mười ba la mật) tương ứng với thập địa (từ hoan hỷ địa đến pháp vân địa).

Trên đây là nói sâu rộng về toàn diện của Đại Thừa Phật Giáo. Trở về khía cạnh thường nhật của cuộc sống con người, Đức Phật chỉ dạy bốn điều giản dị, giúp đỡ chúng ta thoát khỏi tình trạng khủng khiếp nhất: đánh mất Bồ Đề Tâm. Bồ Tát đánh mất Bồ Đề Tâm thì Bồ Tát không còn là Bồ Tát nữa.

Điều thứ nhất là khi trá sư trưởng: dối gạt, lường gạt, đánh lừu bậc Thầy của mình. Điều này xảy ra trong nhiều trường hợp dễ nhận: bên ngoài lộ vẻ cung kính Thầy, nhưng bên trong tâm thức lúc nào cũng sẵn sàng phản bội Thầy; bước đầu tỏ vẻ khiêm hạ từ tốn run rẩy trước mặt Thầy, nhưng bước sau là muốn đạp Thầy xuống để giành lấy vị thế của Thầy hoặc tưởng rằng mình lại vượt cao hơn Thầy rất xa, hoặc cho rằng mình đã thành Phật và tưởng rằng Thầy chỉ là một người tầm thường. Trước mặt Thầy thì quì lạy, nhưng sau lưng thì dùng những tiếng lóng bất kính để ám chỉ Thầy. Đó là chưa kể những sự dối gạt theo điệu thế gian về ba mặt thân, khẩu và ý. Đứng về mặt sâu thẳm thiêng liêng của Phật giáo Mật tông, điều đáng sợ nhất và điều dối gạt lớn nhất đối với Thầy là không tu hành đúng theo giới nguyện và không thực hiện mật nguyện (samaya) riêng biệt của một đệ tử đối với bổn sư của mình. Đó cũng là lý do khiến cho mình không cung kính những pháp môn, những kinh điểnsư phụ đã mật truyền hoặc biệt truyền cho riêng mình để tùng sự cho tất cả chúng sinh.

Điều thứ hai khiến cho mình đánh mất Bồ Đề Tâm là gây ra những “nghi hối” không xác đáng và không đúng chỗ, khiến cho người khác trở nên nghi hối và mất hăng hái thiết tha trong việc thi hành.

Điều thứ ba làm cho Bồ Tát đánh mất Lòng Bồ Đề là chê bai bêu xấu những kẻ cùng đi con đường lớn như mình, những kẻ cũng cầu Đại Thừa. Chẳng kể chi những người theo Tiểu Thừa thường chê bai Đại Thừa, ngay cả những người theo Đại Thừa lại chỉ trích bêu xấu lẫn nhau: người theo Thiền tông lại bêu xấu Tịnh Độ tông; hoặc người theo Luật tông lại chê bai bêu xấu Mật tông, vân vân... Phật giáo Tàu chê bai Phật giáo Tây Tạng, hoặc Phật giáo Tàu bêu xấu Phật giáo Việt Nam, vân vân... Thực ra, Phật giáo đúng nghĩa thì chẳng có “chê bai” và “bêu xấu”, và cũng chẳng có phân biệt xứ sở hay quốc tịch như Tây, Tàu, Việt, Ấn, vân vân...

Điều thứ tư làm đánh mất Bồ Đề Tâm là tâm siểm khúc, là dua nịnh (siểm nịnh) tức là ton hót, tâng bốc, nịnh nọt mọi người để cầu an, cầu thực, cầu lợi, cầu sắc, cầu danh, cầu tài, vân vân... Tóm lại, nịnh hót để cầu cho được ngũ dục của thế gian.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15042)
Đại chánh tân tu số 0070, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13485)
Đại chánh tân tu số 0068, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15179)
Đại chánh tân tu số 0069, Hán dịch: Pháp Hiền, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 16564)
Luận Du Già Sư Địa (Phạn: Yogacàrabhùmi – sàtra), tác giảBồ tát Di Lặc (Maitreya) thuyết giảng, Đại sĩ Vô Trước (Asànga) ghi chép, Hán dịch là Pháp sư Huyền Tráng (602 -664)... Nguyên Hiền
(Xem: 13254)
Đại chánh tân tu số 0067, Hán dịch: Chi Khiêm, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12613)
Đại chánh tân tu số 0066, Hán dịch: Thất Dịch, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13506)
Đại chánh tân tu số 0065, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13461)
Đại chánh tân tu số 0064, Hán dịch: Thích Pháp Cự, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12798)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 12089)
Đại chánh tân tu số 0063, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12011)
Đại chánh tân tu số 0062, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12688)
Đại chánh tân tu số 0061, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11534)
Đại chánh tân tu số 0060, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11824)
Đại chánh tân tu số 0059, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11188)
Đại chánh tân tu số 0058, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13323)
Đại chánh tân tu số 0057, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13208)
Đại chánh tân tu số 0056, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11621)
Đại chánh tân tu số 0055, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12207)
Đại chánh tân tu số 0054, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12383)
Đại chánh tân tu số 0052, Hán dịch: Thí Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11998)
Đại chánh tân tu số 0051, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12774)
Đại chánh tân tu số 0050, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12403)
Đại chánh tân tu số 0048, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12229)
Đại chánh tân tu số 0047, Hán dịch: Trúc Pháp Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12307)
Đại chánh tân tu số 0046, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12048)
Đại chánh tân tu số 0045, Hán dịch: Pháp Hiền, Thí Quang Lộc Khanh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11963)
Đại chánh tân tu số 0044, Hán dịch: Khuyết Danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11254)
Đại chánh tân tu số 0043, Hán dịch: Huệ Giản; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11401)
Đại chánh tân tu số 0042, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12400)
Đại chánh tân tu số 0041, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12491)
Đại chánh tân tu số 0040, Hán dịch: Ðàm Vô Sấm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12020)
Đại chánh tân tu số 0039, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12992)
Đại chánh tân tu số 0038, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12073)
Đại chánh tân tu số 0037, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12629)
Đại chánh tân tu số 0036, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13041)
Đại chánh tân tu số 0035, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13978)
Đại chánh tân tu số 0034, Hán dịch: Thích Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12768)
Đại chánh tân tu số 0033, Hán dịch: Pháp Cự; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14887)
Đại chánh tân tu số 0032, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 11943)
Đại chánh tân tu số 0031, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12200)
Đại chánh tân tu số 0030, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12906)
Đại chánh tân tu số 0029, Hán dịch khuyết danh; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12783)
Đại chánh tân tu số 0028, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14808)
Đại chánh tân tu số 0027, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12787)
Đại chánh tân tu số 0022, Hán dịch: Trúc Ðàm Vô Lan; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15424)
Đại chánh tân tu số 0021, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12609)
Đại chánh tân tu số 0020, Hán dịch: Chi Khiêm; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13243)
Đại chánh tân tu số 0018, Hán dịch: Pháp Thiên; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 14275)
Đại chánh tân tu số 0017, Hán dịch: Chi Pháp Ðộ; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 15579)
Đại chánh tân tu số 0016, Hán dịch: An Thế Cao; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13761)
Đại chánh tân tu số 0015, Hán dịch: Pháp Hiền; Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 13155)
Đại chánh tân tu số 0014, Hán dịch: Sa Môn An Thế Cao, Việt dịch: Thích Chánh Lạc và Tâm Hạnh
(Xem: 13593)
Kinh Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0006) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12509)
Kinh Phật Bát Nê Hoàn (Đại Chánh Tân Tu số 0005) - Bạch Pháp Tổ; Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12098)
Kinh Thất Phật Phụ Mẫu Tánh Tự (Đại Chánh Tân Tu số 0004) - Thích Chánh Lạc dịch
(Xem: 12924)
Kinh Phật Tỳ Bà Thi (Đại Chánh Tân Tu số 0003) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13019)
Kinh Thất Phật (Đại Chánh Tân Tu số 0002) Hán Dịch: Tống Pháp Thiên, Việt dịch: Thích Tâm Hạnh
(Xem: 13254)
Đức Phật dạy: Ai muốn tin Ta, làm đệ tử Ta, cần phải đủ trí quán sát, mới tin; không rõ nguyên nhân Ta, mà tin Ta ấy là phỉ báng Ta... HT Thích Hành Trụ dịch
(Xem: 21360)
Thiện Ác Nghiệp Báo (Chư Kinh Yếu Tập) Đại Chánh Tân Tu số 2123 - Nguyên tác: Đạo Thế; Thích Nguyên Chơn dịch
(Xem: 143755)
Đại Tạng Việt Nam bao gồm 2372 bộ Kinh, Luật và Luận chữ Hán và tất cả đã kèm Phiên âm Hán Việt...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant