Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

II. Dịch Nghĩa Bản A

28 Tháng Tư 201100:00(Xem: 8273)
II. Dịch Nghĩa Bản A

KINH BỐN MƯƠI HAI BÀI
HT. Thích Trí Quang dịch

Dịch Nghĩa Bản A 
Kinh Bốn Mươi Hai Bài
(1) 
Thời đại Hậu Hán (2) ,các vị Sa môn Tây vức là Ca diếp ma đằngPháp lan dịch. 

 
Ghi Chú (1) 
Chính văn là chương. Nhưng ở đây chỉ là 42 bài, hoặc trích yếu hoặc trích diễm của các kinh Phật thuyết

Ghi Chú (2) 
Chính 17/744, và Thế giới đại sự biểu của Từ hải, nói rõ là năm thứ 8 niên hiệu Vĩnh bình (65 dl) của hoàng đế Hiếu minh, thời đại Hậu Hán. 

(1) 
Phật nói, từ biệt cha mẹ, xuất gia hành đạo (3) , nên gọi là sa môn. Thường giữ 250 giới, làm theo tứ đế (4) , bước tới (5) thanh tịnh, thành A la hán (6) . A la hán là bậc có thể phi hành, biến hóa (7) , làm tồn tại sinh mạng, làm chấn động thế giới (8) . Kế đó là A na hàm; A na hàmmạng chung thì sinh (9) trên tầng trời mười chín (10) , ở đó thành A la hán. Kế đó nữa là Tư đà hàm; Tư đà hàmmột lần lên xuống thì thành A la hán. Sau hết là Tu đà hoàn; Tu đà hoàn là bảy lần lên xuống thì thành A la hán. Ái dục (mà các bậc thánh giả này) cắt đứt thì như tay chân đứt rồi không dùng được nữa (11) . 

Ghi Chú (3) 
Hầu hết chữ đạo trong kinh này, dầu mượn chữ Trung hoa mà chủ yếu là chỉ cho tứ đế

Ghi Chú (4) 
Chính văn là tứ chân đạo hạnh (hạnh của 4 chân lý). 

Ghi Chú (5) 
Chính văn là tiến chí (tâm chí bước tới). Bản B nói tiến chỉ (động tĩnh). 

Ghi Chú (6) 
Hãy nói luôn cả 4 đạo quả (cấp độ tu chứng) của tiểu thừa. Trước hết phải biết 4 đạo quả này là do hủy diệt kiến hoặctu hoặc của 3 cõi mà thành. Kiến hoặc của 3 cõi là 10 sử : tham, sân, si, mạn, nghi (những tính xấu bẩm sinh) và thân kiến, biên kiến, giới thủ, kiến thủ, tà kiến (những kiến thức sai lầm). Tu hoặc mà của cõi Dục là tham, sân, si, mạn (có 9 bậc, là nặng, vừa, nhẹ, lại nhân nặng, vừa, nhẹ nữa); của 2 cõi Sắc và Vô sắc là tham, si, mạn (cũng có 9 bậc, là nặng, vừa, nhẹ, lại nhân nặng, vừa, nhẹ nữa). Biết kiến hoặctu hoặc rồi, bây giờ nói 4 đạo quả. Một, đời này hủy diệt kiến hoặc của cả 3 cõi thì thành Tu đà hoàn (Dự lưu : dự vào dòng thánh). Nhưng đạo quả này chưa hủy diệt 9 bậc tu hoặc của cõi Dục, nên chết rồi phải 7 đời là tối đa, qua lại giữa nhân loạichư thiên cõi Dục mà hủy diệt mới thành A na hàm, sinh ở Bất hoàn thiên, hủy diệt 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc mà thành A la hán. Hai, đời này hủy diệt đến 6 bậc tu hoặc của cõi Dục thì thành Tư đà hàm (Nhất lai: một lần trở lại). Nhưng đạo quả này còn 3 bậc tu hoặc nữa của cõi Dục, nên chết rồi phải 1 đời qua lại giữa nhân loạichư thiên cõi Dục mà hủy diệt mới thành A na hàm, sinh ở Bất hoàn thiên, hủy diệt 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và vô sắc mà thành A la hán. Ba, đời này hủy diệt hết cả 9 bậc tu hoặc của cõi Dục nên thành A na hàm (Bất lai: không còn trở lại). Nhưng đạo quả này còn 9 bậc tu hoặc của 2 cõi Sắc và Vô sắc, nên sinh ở Bất hoàn thiên mà hủy diệt là thành A la hán. Bốn, đời này hủy diệt tất cả kiến hoặctu hoặc của 3 cõi thì liền thành A la hán (??? cúng : thích ứng hiến cúng). Nhưng kiến hoặctu hoặc toàn là không biết tứ đế mà có, nên nói hủy diệt kiến hoặc tu hoặc tức là nói "làm theo tứ đế". 

Ghi Chú (7) 
A la hán phần ít có lục thông (6 khả năng đặc biệt): thiên nhãn (thị giác thần kỳ), thiên nhĩ (thính giác thần kỳ), tha tâm (biết tâm lý người), túc mạng (biết các đời trước), thần cảnh (biến hiện đa dạng), lậu tận (hết mọi sơ hở). Phi hànhbiến hóa chỉ là nói về thần cảnh. 

Ghi Chú (8) 
Chính văn là thiên địa (trời đất), mượn chữ của Trung hoa. 

Ghi Chú (9) 
Đúng chính văn thì phải nói hồn linh sinh. Hồn linh (phần thiêng của hồn) là mượn chữ của Trung hoa. Chữ đúng phải là nghiệp thức (tâm thức huân tập nghiệp). Các thánh giả hủy diệt nghiệp mà thành, nên các dịch giả đại danh sau này không nói chủ từ này, mà chỉ nói sinh. Sinh là sinh ra chứ không phải sinh đến. Nói chính xác thì phải nói như vậy. Vì đâu cũng là Tâm cả; quả báo này biến mất thì quả báo khác hiện ra, như thế gọi là sinh. 

Ghi Chú (10) 
Tầng trời 19 là Vô tưởng (mà ngoại đạo cho là niết bàn). Trên tầng trời ấy là 5 Bất hoàn thiên (Vô phiền, Vô nhiệt, Thiện hiện, Thiện kiến, Sắc cứu cánh), thuộc cõi Sắc, mà vẫn như không lệ thuộc 3 cõi, và là chỗ của các thánh giả A na hàm (Bất hoàn) cư trú. 

Ghi Chú (11) 
a. Câu này là nói niết bàn của tiểu thừa. Ái dục (nói xác là tình yêu và tình dục, nói rộng là ưa thíchham muốn) là bao quát tất cả kiến hoặctu hoặc, và xác nhất thì chỉ gọi là Ái. Nên niết bàn tiểu thừa gọi đủ là ái tận niết bàn
b. Trọn bài này có nghĩa xuất gia thì lịch trình tu chứng là 4 đạo quả, với mục đích tối hậu là ái tận niết bàn của La hán - niết bàncăn bản là tuân giữ Tỷ kheo giới và tu theo tứ đế. Và 41 bài sau có thể nói toàn là cho thấy ái dục tại sao phải diệt, ái dục diệt như thế nào, và ái dục diệt thì hiệu quả là những gì. 

(2) Phật nói, cạo bỏ râu tóc, làm bậc sa môn, tiếp nhận lấy đạo, thì hãy rời bỏ tài sản thế gian, khất thực (12) vừa đủ. Mỗi ngày đứng bóng ăn một bữa, mỗi đêm dưới cây ngủ một lần, thận trọng đừng thêm. Làm cho người u mê tồi tệ chính là ái dục (13) . 

Ghi Chú (12) 
Chính văn là khất cầu (cầu xin), nói rộng cho thức ăn, thức uống, đồ nằm, đồ mặc, dược phẩm. Nhưng ở đây nói hẹp là khất thực: khất cầu thức ăn

Ghi Chú (13) 
Ái dục, trước hết, là không thiểu dục tri túc về ăn và ngủ. 

(3) Phật nói, chúng sinh do mười sự mà lành, cũng do mười sự mà ác. Đó là thân có 3, miệng có 4, ý có 3. Thân có 3 là sát sinh, trộm cướp, dâm dục. Miệng có 4 là ly gián, mắng chưởi, dối trá, thêu dệt. Ý có 3 là ganh ghét, tức giận, u mê. (Mười sự này là ác, bỏ mười sự này là lành). Không tín ngưỡng 3 ngôi tôn quí (14) , lấy tà làm chánh, (nên mới làm mười ác). Tại gia giữ năm giới, không biếng nhác, không lùi bước, giữ đến mười sự thì chắc chắn đắc đạo (15) . 

Ghi Chú (14) 
Chính văn là Tam tôn (Tam bảo). 

Ghi Chú (15) 
Với ý nghĩa bài này, Phật pháp cho thấy con người do chính hành vi của mình định đoạt lấy đời mình. 

(4) Phật nói, người có lỗi mà không tự hối, ngưng liền, thì lỗi dồn lại nơi thân mình như nước đổ về biển cả, thành ra càng sâu càng rộng. Có lỗi mà biết là trái, đổi ác làm lành, thì mỗi ngày lỗi hết dần đi, sau đó thế nào cũng đắc đạo (16) . 

Ghi Chú (16) 
Lỗi là biểu hiện của ái dục, phải biết hối cải. 

(5) Phật nói, có người không hiểu Như lai, đem điều ác đến cho Như lai. Như lai đem lòng từ trong 4 tâm vô lượng (17) mà nâng đỡ, cứu độ cho họ. Họ đem điều ác đến lại, Như lai lại đáp bằng điều lành. Bởi vì khí lực phước đức là ở chỗ ấy, còn khí lực tội ác thì tự hại mình. Có người nghe phong cách của Như lai là giữ đại nhân từ, ác đến thì trả lành, nên đến mắng Như lai. Như lai yên lặng, không trả lời, thương họ làm thế là vì si cuồng. Mắng rồi, Như lai hỏi, ông đem lễ vật biếu người, người không nhận thì lễ vật ấy đem về đâu? Đem về cho tôi. Vậy ông mắng Như lai, Như lai không nhận thì ông cũng tự nhận lại, gây họa cho mình. Vang ứng theo tiếng, bóng tùy theo hình, không thể tránh khỏi. Hãy thận trọng, đừng làm ác (18) . 

Ghi Chú (17) 
Chính văn là tứ đẳng (4 đức tính phổ cập tất cả, đồng đẳng hết thảy). 

Ghi Chú (18) 
Phải nhẫn điều ác. Phải bỏ điều ác. Bài này răn cả đôi bên. Và chính sự nhẫn điều ác là răn dạy, cảm hóa cho điều ác được bỏ. 

(6) Phật nói, người ác hại người hiền thì như ngửa mặt lên trời mà nhổ nước dãi, nước dãi không bẩn trời mà lại bẩn mình; như ngược gió tung bụi, bụi không dơ người mà lại dơ bản thân. Người hiền không thể hại được mà bản thân tất bị tai hạilỗi lầm của mình. 

(7) Phật nói, hành đạo thì phải chăm lo bác ái. Mà bác ái bố đức thì không gì hơn bố thí. Bền chí mà thờ đạo như vậy thì phước rất lớn (19) . 

Ghi Chú (19) 
Bài 9 bản B là chữa bài này. Chữa như hay mà ý không bằng. 

(8) (Phật nói,) thấy người bố thí, hãy giúp một cách vui vẻ, thì cũng được phước báo. Hỏi, phước ấy có giảm bớt đi không? Phật nói, như lửa nơi một cây đuốc, hàng ngàn hàng trăm người đem đuốc đến lấy lửa ấy mà nấu ăn, soi sáng, lửa ấy vẫn như cũ. Phước ấy cũng như vậy (20) . 

Ghi Chú (20) 
Ở chỗ khác còn nói người này chuyền lửa cho người kia, chuyền mãi vô cùng

(9) Phật nói, đãi cơm một trăm người thường không bằng một người tốt. Đãi cơm một ngàn người tốt không bằng một người giữ 5 giới. Đãi cơm một vạn người giữ 5 giới không bằng một vị Tu đà hoàn. Hiến cơm trăm vạn Tu đà hoàn không bằng một vị Tư đà hàm. Hiến cơm ngàn vạn Tư đà hàm không bằng một vị A na hàm. Hiến cơm một ức A na hàm không bằng một vị A la hán. Hiến cơm mười ức A la hán không bằng một vị Bích chi phật. Hiến cơm trăm ức Bích chi phật không bằng đem giáo huấn của Tam bảohóa độ song thân một đời. Hóa độ song thân ngàn ức đời không bằng hiến cơm một người học tập theo Phật, nguyện được như Phật để cứu vớt chúng sinh (20B) . Hiến cơm người như vậy thì phước sâu dày nhất. Còn phụng thờ trời đất quỉ thần thì không bằng hiếu thảo cha mẹ: cha mẹthần linh bậc nhất (21) . 

Ghi Chú (20B) 
Là người phát bồ đề tâm

Ghi Chú (21) 
a. Bài 11 bản B chữa đoạn chót, kém hẳn ở đây. 
b. Câu chót, có vài bản có lẽ cũng thấy quan trọng, nên không bỏ, lại tách ra làm 1 bài, đề bài 12 (Vạn 59/50B và 80A). 

(10) Phật nói, người có 5 sự khó: nghèo nànbố thí mới khó, giàu sanghọc đạo mới khó, liều mình mà chắc chết mới khó (22) , được nhìn thấy kinh Phật mới khó, sinh ra gặp đời Phật mới khó (23) . 

Ghi Chú (22) 
Chính văn là chế mạng bất tử. Bản của Chân tông hoàng đế viết phán mạng bất tử, và chú thích, bất là tất viết sai, thêm nữa, ngữ âm Tây nhung nói tất là bất (Vạn 59/28A). Như vậy viết đúng là phán mạng tất tử, và dịch liều mình mà chắc chết. Phán là dứt bỏ. 

Ghi Chú (23) 
Bài 12 bản B nói đến 20 sự khó, rõ ràngthêm thắt

(11) Có vị sa môn hỏi Phật, nhờ gì mà đắc đạo (25) ? Làm sao biết đời trước? Phật nói, đạo siêu việt tất cả sắc thái. Đòi biết đạo là vô ích. Chính yếu là phải cố thủ chí nguyệntu hành. Rồi như lau kính, dơ hết thì sáng lộ, thấy được hình ảnh: hủy diệt ái dục, giữ sự thanh tịnh (26) , thì thấy đạo, thì biết đời trước. 

Ghi Chú (25) 
Đạo là mượn chữ Trung hoa. Ở đây, đạo chỉ cho diệt đế (nói theo tiểu thừa), cho chân như (nói theo đại thừa). Đắc đạo là thể hội diệt đế hay chân như ấy. 

Ghi Chú (26) 
Chính văn là không: trống không ái dục.

(12) Phật nói, lành là gì, là chỉ hành đạo. Lớn là gì, là chí nguyện phù hợp với đạo. Mạnh nhiều là gì, là nhẫn nhục; nhẫn nhục thì không thù oán, tất được người trọng. Sáng nhất là gì, là dơ bẩn của tâm trí được trừ hết, hành vi của tội ác được diệt sạch, ngay từ bên trong mà sáng không tì vết, thì vô thỉ đến giờ (27) , vũ trụ có gì, dầu chưa manh nha, cũng biết, thấy và nghe cả: được tuệ giác biết toàn bộ (28) mới là sáng nhất. 

Ghi Chú (27) 
Chính văn là trời đất chưa có, cho đến ngày nay (mượn chữ Trung hoa). 

Ghi Chú (28) 
Chính văn là nhất thế trí. 

(13) Phật nói, có ái dục thì không thấy đạo. Như nước đã đục mà còn bỏ vào 5 màu, ra sức quấy lên, thì ai đến trên nước ấy cũng không thấy hình ảnh. Ái dục giao xen, làm bẩn tâm trí nên không thấy đạo: nước lóng, dơ hết, trong lắng không bẩn thì tự thấy hình ảnh. Lại nữa, dưới chão là lửa dữ, trong chão nước sôi lên, và đậy trên là vải, thì ai đến soi vào cũng không thấy hình bóng: tâm trí vốn có 3 độc (29) sôi sục bên trong, 5 cái (30) che đậy ở ngoài, thì không bao giờ thấy đạo. Phải hết cả dơ bẩn của tâm trí thì biết xuất xứ của nghiệp thức (31) , biết sống chết về đâu, biết thế giới chư Phật ở đâu (32) . 

Ghi Chú (29) 
Là 3 độc tố tham, sân, si (nói xác là dâm, nộ, si). 

Ghi Chú (30) 
Là 5 sự che đậy: ham muốn, tức giận, ngủ nghỉ, háo động, hoài nghi

Ghi Chú (31) 
Chính văn là hồn linh. Coi lại ghi chú 9 . 

Ghi Chú (32) 
Dịch đủ: biết thế giới chư Phật, nơi đạo đức, ở đâu. 

(14) Phật nói, học đạo thì như cầm đuốc vào trong nhà tối, tối hết mà sáng còn: học đạo mà thấy thánh đế (33) thì ngu si diệt hết, được sự thấy toàn thể

Ghi Chú (33) 
Đế là chắc chắn, chân lý. Thánh đếchân lý được thấy bởi các thánh giả. Thánh đếtứ đế

(15) Phật nói, Như lai nhớ gì, nhớ đạo. Như lai làm gì, làm đạo. Như lai nói gì, nói đạo. Như lai nhớ đến thánh đế (34) thì không bỏ qua phút chốc nào cả (35) . 

Ghi Chú (34) 
Là đạo nói trên. 

Ghi Chú (35) 
Bài 18 bản B là chữa bài này. Nhưng chữa không bằng, văn và ý như hay mà hồn hàm. 

(16) Phật nói, nhìn trời đất hãy nhớ vô thường, nhìn núi sông hãy nhớ vô thường, nhìn vạn hữu hình thái phong phú hãy nhớ vô thường (36) . Giữ tâm trí như vậy thì đắc đạo mau chóng. 

Ghi Chú (36) 
Bài 19 bản B chữa 3 điều này gọn hơn, nhưng điều 3 không hợp đạo lý vô thường như ở đây. 

(17) Phật nói, việc làm mỗi ngày là thường nhớ đạo, hành đạo, thì thành đạt đức tin, phước được vô lượng (37) . 

Ghi Chú (37) 
Nhớ đạo, hành đạo mới là đức tin: đức tin của Phật giáo là như vậy. 

(18) Phật nói, một cách chín chắnthuần thục, hãy tự nghĩ nhớ, trong cơ thể, 4 đại (38) đều có tên riêng, không có cái ngã (39) ký sinh ở đó. Ký sinh ở đó đi nữa thì cũng không vĩnh cửu, sự việc chỉ như ảo thuật mà thôi. 

Ghi Chú (38) 
Tứ đại có 2 loại: loại tứ đại thật, loại tứ đại chỉ là tùy tăng. Tứ đại thật là kiên (cố thể) thấp (dịch thể) noãn (nhiệt lực) động (động lực). Tứ đại tùy tăng là đất (cố thể tăng nhiều hơn) nước (dịch thể tăng nhiều hơn) hỏa (nhiệt lực tăng nhiều hơn) phong (động lực tăng nhiều hơn). Tứ đại thật mới là loại Phật học nói đến. 

Ghi Chú (39) 
Ngã là khái niệm chủ tể (tự chủchỉ huy). 

(19) Phật nói, vì ái dục mà cầu hoa danh (40) thì cũng như đốt hương, hơi thơm nghe được thì hương đã tự đốt rồi. Người thiếu trí tuệ mới ham hoa danh tầm thường, không cố thủ sự chân thật của đạo hạnh. Hoa danh tai họa cho bản thân, sự hối hận theo liền sau nó. 

Ghi Chú (40) 
Hoa danh: danh tiếng hoa hòe

(20) Phật nói, con người đối với tiền tài và sắc đẹp thì y như trẻ con ham một chút mật ngọt nơi lưỡi dao, liếm vào, không đủ myՠvị một bữa ăn mà có cái họa đứt lưỡi. 

(21) Phật nói, con người ràng buộc vào vợ con bảo vật và nhà cửa thì còn hơn gông cùm xích khóa của lao ngục. Lao ngục còn có ngày được phóng thích, vợ con ái dục thì nhảy vào miệng cọp cũng cam tâm, đâu có cái ngày phóng thích. 

(22) Phật nói, ái dục không gì hơn sắc đẹp. Sắc đẹp tạo ra ái dục thì không gì lớn bằng. Nhờ chỉ có một cái như vậy, giả sử có cái thứ hai thì thiên hạ không còn ai hành đạo được nữa. 

(23) Phật nói, con người đối với ái dục thì cũng như cầm đuốc lửa mà đi ngược gió, ngu mà không bỏ đuốc xuống thì tất bị cháy tay. Độc tố dâm nộ si ở ngay trong thân tâm, không đem đạo mà trừ cái họa ấy cho sớm thì tất phải có tai ương, in như người ngu tự đốt tay vì ham cầm đuốc lửa. 

(24) Thiên thần hiến ngọc nữ cho Phật để thử nghiệm ý ngài, quan sát đạo ngài. Ngài nói, cái đãy da chứa đầy dơ bẩn kia, đến đây làm gì ? Có thể vừa ý thế tục, nhưng không kích động được bậc lục thông (41) . Hãy đi đi, Như lai không cần dùng. Thiên thần rất kính trọng, nhân đó hỏi Phật về ý đạo. Ngài giảng giải cho, liền thành đạt đạo quả Tu đà hoàn

Ghi Chú (41) 
Lục thông: coi lại ghi chú 7. Trong lục thông, căn bảnlậu tận: không còn sơ hở ẫ ái dục không còn để rỉ lọt ra. 

(25) Phật nói, hành đạo thì như cái cây ở trong dòng nước, hãy theo dòng nước mà trôi đi, không mắc bờ bên kia, không mắc bờ bên này, không bị người vớt lấy, không bị quỉ thần ngăn chận, không bị nước xoáy làm đứng lại, không bị thối rã, thì Như lai bảo đảm cây ấy vào được biển cả. Hành đạo cũng vậy, không bị ái dục mê hoặc, không bị tà ngụy quấy phá (41B) , tinh tiến mà không do dự, thì Như lai bảo đảm người ấy đắc đạo

Ghi Chú (41B) 
Đúng chính văn là lừa đảo, nhưng quấy phá thì rộng hơn. 

(26) Phật bảo các vị sa môn, thận trọng, đừng tin ý của các người, ý của các người không bao giờ tin được. Thận trọng, đừng tiếp xúc sắc đẹp, tiếp xúc thì tai họa có liền. Được tuệ giác La hán rồi mới nên tin ý của các người. 

(27) Phật bảo các vị sa môn, thận trọng, đừng nhìn phụ nữ. Phải nhìn thì thận trọng, đừng nói chuyện. Phải nói chuyện thì sắc lịnh cho tâm trí đi theo nẻo chánh, rằng ta là sa môn, ở trong cuộc đời dơ bẩn này ta phải như đóa sen không dính bùn lầy. Già thì coi như mẹ, lớn thì coi như chị, trẻ thì coi như em, nhỏ thì coi như con. Cẩn trọng mà giữ uy nghi, ý thức càng phải đúng thánh đế. Phải xét từ đầu đến chân, thấy trong đó không có gì là thân thể, mà chỉ chứa toàn đồ dơ bẩn gớm ghiếc : phải xét như vậy mà [sinh tâm độ thoát ], giải tỏa ý thức (41C) . 

Ghi Chú (41C) 
Ở đây bản B có 1 câu quan trọng: mà sinh tâm độ thoát, giải tỏa ý thức

(28) Phật nói, hành đạo thì phải từ bỏ tình dục. Hãy như cỏ gặp lửa, lửa đến thì phải tránh: người hành đạo gặp ái dục thì phải tránh cho xa. 

(29) Có người bực vì tình dục không ngừng, dùng dao búa mà đoạn âm (42) . Phật nói, đoạn âm đâu bằng đoạn tâm. Tâm như pháp quan, pháp quan không có thì cũng không có công sai. Tâm tà không ngừng thì đoạn âm ích gì, chỉ đem lại cái chết mà thôi. Thế nhân nhận thức đảo ngược là như người khờ trên đây. 

Ghi Chú (42) 
Trừ bỏ bộ phận sinh thực nam. 

(30) Có một dâm nữ hẹn với nam nhân. Đến hẹn nam nhân không đến. Dâm nữ tự hối, rằng 
Dục tình, ta biết ngươi, 
gốc của ngươi là ý, 
ý sinhtư tưởng
Ngày nay ta không còn 
tư tưởng nữa đến ngươi, 
thì ngươi hết sinh ra (43) 
Phật đang đi, nghe vậy, bảo các vị sa môn, nhớ lấy, đấy là bài chỉnh cú của đức Phật Ca diếp, được lưu hành trong dân gian. 

Ghi Chú (43) 
Bài 31 bản B chữa phần sau của bài này. Nếu không phải để hiểu sao cũng được thì văn với ý cũng khá. 

(31) Phật nói, con người do ái dục mà lo buồn, do lo buồn mà sợ hãi. Không ái dục thì không lo buồn, không lo buồn thì không sợ hãi

(32) Phật nói, hành đạo là như một người chiến đấu với muôn người. Mặc áo giáp, cầm vũ khí, tiến ra chiến trường. Nhưng rồi có kẻ khiếp đảm, tự lui mà chạy; có kẻ nửa đường bỏ về; có kẻ quyết chiến mà chết; có kẻ đại thắng mà về, thiên chuyển lên cao. Ấy vậy, những ai kiên trì tâm chí, tinh nhuệ bước tới, không mê hoặc vì lời tiếng tầm thường, cuồng dại, thì chiến thắng ái dục, đánh bại xấu ác, đắc đạo chắc chắn

(33) Có vị sa môn ban đêm tụng kinh tiếng nghe rất buồn, có vẻ hối tiếc, lưỡng lự, muốn trở về thế tục. Phật gọi mà hỏi, khi ông ở nhà thì đã làm gì? Thưa, thường đánh đàn. Giây đàn dùi thì thế nào? Thưa, không kêu. Giây đàn căng thì thế nào? Thưa, mất tiếng. Căng dùi vừa phải thì thế nào? Thưa, âm điệu phát ra đủ cả. Phật nói, học đạo cũng phải như vậy, giữ cho tâm trí chừng mực thì đạo phải được. 

(34) Phật nói, hành đạo cũng như luyện sắt, tuần tự mà luyện, càng luyện càng loại hết quặng đi, thì làm đồ rất tốt. Học đạo mà từ từ, trừ khử một cách sâu xa dơ bẩn trong tâm, thì tinh tiến đắc đạo. Thái quá thì cơ thể mệt mỏi, cơ thể mệt mỏi thì tâm ý bực bội, tâm ý bực bội thì tu hành lùi bước, tu hành lùi bước thì tội lỗi xuất hiện

(35) Phật nói, hành đạo cũng thấy khổ, không hành đạo cũng thấy khổ. Nhưng con người từ sinh đến già, từ già đến bịnh, từ bịnh đến chết, khổ biết bao nhiêu. Tâm ý bực bội, tích lũy tội lỗi, thì sinh tử không ngừng, cái khổ này mới khó nói cho hết. 

(36) Phật nói, thoát đường ác mà được làm người là khó, được làm người mà làm đàn ông là khó, làm đàn ông mà đủ giác quan là khó, đủ giác quan mà sinh xứ trung tâm (44) là khó, sinh xứ trung tâm mà được thờ Phật pháp là khó, được thờ Phật pháp mà gặp quân vương đạo đức (45) là khó, gặp quân vương đạo đức mà sống trong gia đình bồ tát (46) là khó, sống trong gia đình bồ táttín ngưỡng Tam bảo, gặp nhằm đời Phật là khó (47) . 

Ghi Chú (44) 
Là những xứ có Phật giáo, ít nhất cũng có văn hóa tốt. 

Ghi Chú (45) 
Là lãnh tụ quốc gia mà có đạo đức. Có đạo đức thì có chính sách tốt. Chính sách ấy mới lợi cho dân, nhất là cái lợi tín ngưỡng không bị phá hoại. Bài 36 bản B bỏ điều này, thật đáng trách

Ghi Chú (46) 
gia đìnhgia phongtruyền thống vị tha

Ghi Chú (47) 
Cũng như bài 10, bài này của bản B (bài 36) cũng thêm, nhưng không 
sát bằng. 

(37) Phật hỏi một vị sa môn, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu, thưa, trong vài ngày, Phật nói, ông chưa hành đạo. Phật hỏi một vị sa môn khác, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu, thưa, trong một bữa ăn, Phật nói, ông cũng chưa hành đạo. Phật hỏi một vị sa môn khác nữa, sinh mạng con người tồn tại trong bao lâu, thưa, trong hơi thở ra hay vào, Phật nói, hay thay, ông đáng được gọi là người hành đạo

(38) Phật nói, đệ tử của Như lai sống cách Như lai mấy ngàn dặm mà lòng nhớ giới luật của Như lai, thì đắc đạo chắc chắn; còn sống bên cạnh Như lai mà lòng mang tà ý, thì không bao giờ đắc đạo. Sự thực là ở nơi sự hành đạo, gần mà không hành đạo thì đâu có được muôn một trong sự lợi ích

(39) Phật nói, như ăn mật (47B) thì ở giữa hay hai bên đều ngọt, người hành đạo hãy ý thức kinh pháp của Như lai cũng vậy, mọi ý nghĩa đều thích thú, làm theo là đắc đạo

Ghi Chú (47B) 
Chính văn là mật (mật ong). Nhưng tôi ngờ là thạch mật (đường phèn). Nếu là thạch mật thì phải dịch: như ăn đường phèn thì trong ngoài đều ngọt. 

(40) Phật nói, người hành đạonăng lực bạt nhổ gốc rễ ái dục. Ngắt lấy chuỗi ngọc đang treo thì ngắt từng hạt cũng có lúc lấy hết, và xấu ác mà hết thì là đắc đạo (48) . 

Ghi Chú (48) 
Bài này nói tiệm tuchắc chắn đắc đạo. Nhưng tiệm trừ xấu ác mà ví dụ như ngắt từng hạt ngọc thì cũng hơi lạ -- nếu tôi hiểu và dịch không lầm. 

(41) Phật nói, sa môn hành đạo là như contrâu mang nặng, đi trong bùn sâu, mệtnhọc đến mấy cũng không dám ngoái nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu, mới được nghỉ ngơi. Samôn coi ái dục còn hơn bùn sâu, nên thẳng tắp một mạchhành đạo, mới có thể thoát khỏi mọi sự khổ lụy. 

(42) Phật nói, Như lai coi cái ngôi vương hầu như khách trọ (49) , coi cái quí vàng ngọc như sỏi đá, coi cái đẹp tơ lụa như giẻ rách (50) . 

Ghi Chú (49) 
Dịch sát là khách qua đường, ý nói tạm bợ, ở và đi rất mau chóng và bất thường. 

Ghi Chú (50) 
Bài 42 bản A này có vẻ thiếu. Nhưng thêm như bài 42 bản B lại có vẻ thừa. Nên "coi cái trò phải trái như sáu con rồng cùng múa" và "coi sự sinh diệt của tất cả các pháp như cái cây trải qua bốn mùa" mà thiếu đi thì cũng đáng tiếc. 
Vu Lan 2537, 13-15/7. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 33322)
Các chuyên gia đã từng nói cơ năng não bộ của con người so với máy vi tính phức tạp nhất trên thế giới lại càng phức tạp hơn.
(Xem: 6570)
Phật Đà Thập Đại Đệ Tử Tán - Hòa thượng Tuyên Hóa giảng thuật, Nguyễn Minh Tiến Việt dịch
(Xem: 11319)
Các tác phẩm của Thầy phần lớn được dịch từ Hán tạng, gồm giới kinh và các nguồn văn học Phật giáo Đại thừa với tư tưởng uyên thâm về triết họctâm lý học.
(Xem: 30423)
Đã phát khởi chí nguyện Đại thừa, lại kiên quyết thực hiện chí nguyện ấy, đó thực sự là cung cách hùng dũng của con sư tử đang vươn mình, và do đó phải được nhìn đến bằng cung cách của con voi chúa.
(Xem: 30450)
Vua và phu nhân gởi thơ cho Thắng Man, đại lược ca ngợi công đức vô lượng của Như Lai, rồi sai kẻ nội thị tên Chiên Đề La đem thư đến nước A Du Xà... HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 7999)
Tất cả các nhà đạo học và thế học muốn thành tựu kết quả tốt đẹp trong cuộc đời, thì trước hết, họ phải trải qua quá trình kham nhẫn, nỗ lực, tu, học, rèn luyện tự thân, giúp đỡ, và đem lại lợi ích cho tha nhân.
(Xem: 12226)
Bảy Đức Thế Tôn quá khứ từ Thế Tôn Tỳ Bà Thi, Thế Tôn Thích Ca, và chư Thế Tôn vị lai đều chứng ngộ Vô Thượng Bồ Đề từ sự chứng ngộ sự thật Duyên khởi.
(Xem: 12274)
Trong các bản Kinh Pháp Cú, phổ biến nhất hiện nay là Kinh Pháp Cú Nam Truyền, tức là Kinh Pháp Cú dịch theo Tạng Pali.
(Xem: 11623)
Có lần Đức Phật sống tại Rajagaha (Vương Xá) trong Khu Rừng Tre gần Nơi Nuôi Những Con Sóc. Lúc bấy giờ, vị Bà La Môn tên là Akkosa Bharadvaja đã nghe người ta đồn đãi như sau:
(Xem: 12859)
Tôi nghe như vầy. Có lần Đức Phật, trong khi đi hoằng pháp ở nước Kosala nơi có một cộng đồng rất đông Tỳ Kheo, ngài đi vào một tỉnh nhỏ nơi cư trú của người Kalama
(Xem: 34823)
Quy Sơn Cảnh Sách Học Giải - Tác Giả: Thiền Sư Quy Sơn Linh Hựu; Thích Thiện Trí (Thánh Tri) Phỏng Việt Dịch và Viết Bài Học Giải
(Xem: 9863)
Kinh này khởi đầu bằng lời người Bà La Môn hỏi rằng làm thế nào người ta có thể tự thanh tịnh hóa khi nhìn thấy một vị Thượng nhân đã Thanh tịnh,
(Xem: 52289)
Nguyên xưa ngài Quán Nguyệt Pháp sư đem hai thời kinh khóa tụng: Mai đóng chung và chiều nhập chung lại làm một đại thể làm một tập lớn. - Chú giải: Ngài Quán Nguyệt; Dịch giả: HT Thích Khánh Anh
(Xem: 10768)
Tôi nghe như vậy: Một thời, đức Thế Tôn trú tại thành phố Śrāvastī (Xá-vệ), nơi rừng cây Jeta (Kì-đà), vườn của Ông Anāthapiṇḍada (Cấp-cô-độc),
(Xem: 10541)
Bài kinh này trong đoạn cuối (bài kệ 787), câu “không nắm giữ gì, cũng không bác bỏ gì” được Thanissaro Bhikkhu ghi chú rằng ...
(Xem: 10734)
Lúc bấy giờ, Bồ tát Đại sĩ Akṣayamatir[1] từ chỗ ngồ đứng dậy, vắt thượng y[2] qua một bên vai, chắp hai tay[3] hướng về đức Thế Tôn và thưa rằng:
(Xem: 10480)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào?
(Xem: 13100)
Đại ý bài kinh này Đức Phật dạy chúng đệ tử không nên truy tìm quá khứ, không nên ước vọng tương lai vì quá khứ đã đoạn tận.
(Xem: 16310)
Evaṃ me sutaṃ, “như vầy tôi nghe”, là lời Ngài Ananda bắt đầu mỗi bài kinh mà có lẽ không Phật tử nào là không biết.
(Xem: 21873)
Nếu tính từ thời điểm vua Lương Vũ Đế tổ chức trai hội Vu lan ở chùa Đồng Thái vào năm Đại Đồng thứ tư (538), thì lễ hội Vu lan của Phật giáo Bắc truyền đã có lịch sử hình thành gần 1.500 năm.
(Xem: 9641)
Phật dạy giới này áp dụng chung cho tất cả các Phật tử tại gia, không phân biệt Phật tử này thuộc thành phần hay đẳng cấp xã hội nào.
(Xem: 7141)
Sa-môn Thích Đàm Cảnh dịch từ Phạn văn ra Hán văn, tại Trung-quốc, vào thời Tiêu-Tề (479-502). Cư sĩ Hạnh Cơ dịch từ Hán văn ra Việt văn, tại Canada, năm 2018.
(Xem: 10405)
Đức Phật A Di Đà tự thân có ánh sáng vô lượng, chiếu khắp cả mười phương mà không có vật gì có thể ngăn che. Vì vậy nên Phật A Di Đà có nghĩa là Vô Lượng Quang Phật.
(Xem: 12787)
Nguyên tác Hán văn: Tì-kheo Linh Diệu, tông Thiên Thai soạn - Dịch sang tiếng Việt: Thích Thọ Phước
(Xem: 12809)
Ngài Buddhaghosa sanh ra và lớn lên nước Magadha, thuộc Trung Ấn Độ, vào thế kỷ thứ V trong ngôi làng Ghosa, gần địa danh nơi đức Phật thành đạo Bodhigaya
(Xem: 16256)
Nghiên Cứu Về Kinh A Hàm (Ãgama, Sanscrist)
(Xem: 16554)
Ai nói như sau, này các Tỷ-kheo: "Người này làm nghiệp như thế nào, như thế nào, người ấy cảm thọ như vậy, như vậy".
(Xem: 13883)
Đây là những điều tôi nghe hồi Bụt còn ở tại tu viện Cấp Cô Độc trong vườn cây Kỳ Đà ở thành Vương Xá.
(Xem: 16617)
Vào thời Đức Thích-ca-mâu-ni, không có hệ thống chữ viết được phổ biếnẤn Độ. Do đó, những thuyết giảng của Ngài được ghi nhớ và ...
(Xem: 12147)
"Lại nữa, lúc bấy giờ Mahāmati thưa rằng: “Bạch Thế Tôn, ngài đã từng dạy rằng: từ lúc Như Lai chứng nghiệm giác ngộ cho đến...
(Xem: 13858)
Kinh Địa Tạng là một trong các kinh Đại thừa được phổ biến rộng rãi trong quần chúng Việt Nam từ hơn nửa thế kỷ nay song song với các kinh Kim Cương, Di Đà, Phổ Môn...
(Xem: 14343)
Nguyên tác: Tôn giả Thế Thân (Acarya Vasubandhu) - Hán dịch: Tam Tạng Pháp sư Huyền Tráng; Việt dịch: Tỳ khưu Tâm Hạnh
(Xem: 9228)
No. 1613 - Nguyên tác: Tôn giả An Huệ; Dịch Hán: Tam Tạng Pháp sư Địa-bà-ha-la; Dịch Việt: Tâm Hạnh
(Xem: 11769)
Duy thức nhị thập luận, do bồ tát Thế Thân soạn, ngài Huyền trang dịch vào đời Đường... được thu vào Đại chính tạng, tập 31, No.1590.
(Xem: 11292)
Bồ-tát Trần Na tạo luận. Tam tạng Pháp sư Huyền Trang phụng chiếu dịch. Việt dịch: Quảng Minh
(Xem: 16356)
Nghe như vầy, một thời Đức Phật ở nước Xá Vệ ở vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc cùng chúng đại Tỳ Kheo năm trăm vị. Bấy giờ các thầy Tỳ Kheo...
(Xem: 14373)
No. 699; Hán dịch: Đời Đại Đường, Trung Thiên Trúc, Tam tạng Pháp sư Địa bà ha la, Đường dịch là Nhật Chiếu
(Xem: 16214)
Đức Phật Thích-Ca Mưu-Ni, bắt đầu chuyển pháp-luân, độ cho năm vị Tỳ-Khưu là Tôn-giả Kiều-Trần-Như v.v... Sau cùng, Ngài thuyết pháp độ cho ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 12706)
Kinh Phạm Võng nằm trong Đại Chánh Tạng, tập 24, ký hiệu 1484, gọi đủ là Phạm võng kinh Lô xá na Phật thuyết bồ tát tâm địa giới phẩm đệ thập
(Xem: 12100)
Phật thuyết-giảng Kinh Phạm-Võng để dạy về giới-luật, và các pháp cao-siêu vượt thoát được sáu mươi hai kiến-chấp vốn là các tà-kiến đã...
(Xem: 11811)
Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Ở đây,,,
(Xem: 15690)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434; Dịch Phạn - Hán: Tam Tạng Cát-ca-dạ, Dịch Hán - Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ; Hiệu đính: HT Thích Như Điển
(Xem: 11530)
Đời Đường, Thận Thủy Sa Môn Huyền Giác Soạn; Thánh Tri dịch nghĩa Việt và viết bài học giải...
(Xem: 14034)
Phật giáo được khai sáng ở Ấn-độ vào năm 589 trước kỉ nguyên tây lịch (năm đức Thích Ca Mâu Ni thành đạo), và đã tồn tại liên tục, phát triển không ngừng trên ...
(Xem: 12026)
Trong truyền thống Phật giáo Bắc truyền, Dược Sư là một bản kinh thường được trì tụng nhằm mục đích giải trừ tật bệnh, cầu nguyện bình an...
(Xem: 12683)
Thích-ca là phiên âm của tiếng Phạn. Phiên âm Hán Việt là Năng Nhân. Tức là họ của đấng hóa Phật ở cõi Ta-bà...
(Xem: 15006)
Kinh chuyển Pháp luân là bài thuyết Pháp đầu tiên của Đức Phật Thích-ca sau khi Ngài đã đắc đạo.
(Xem: 11978)
Ba Ngàn Oai Nghi Của Vị Đại Tỳ Kheo - Được xếp vào tập T24 - Kinh số 1470 - Tổng cộng kinh này có 2 quyển
(Xem: 13147)
Những gì xảy ra trong thế giới này đều bị qui luật Nhân quả chi phối. Mọi thứ xuất hiện ở đời đều có nhân duyên. Hạnh phúcthế gian hay Niết bàn của người tu đạo không ra ngoài qui luật ấy.
(Xem: 14573)
Satipatthana Sutta là một bản kinh quan trọng làm nền tảng cho một phép thiền định chủ yếu trong Phật giáo là Vipassana...
(Xem: 20747)
Kinh Tứ Thập Nhị Chương là một bài Kinh được truyền bá khá rộng rải ở các Tồng Lâm Tự Viện của Trung QuốcViệt Nam từ xưa đến nay.
(Xem: 13249)
Bản dịch này được trích ra từ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh Vol. 48, No. 2010. Bởi vì lời dạy của Tổ Tăng Xán quá sâu sắc, súc tích, và bao hàm trong 584 chữ Hán,
(Xem: 10981)
Dịch từ Phạn sang Tạng: Kluḥi dbaṅ-po, Lhaḥi zla-ba; Dịch Tạng sang Việt: Phước Nguyên
(Xem: 20737)
Trí Phật là trí Kim – cang, Thân Phật là thân Kim – Sắc, cõi Phật là cõi Hoàng – kim, lời Phật tất nhiên là lời vàng.
(Xem: 14382)
Bấy giờ Hòa Thượng Vakkali nhìn thấy Đức Phật đang đi đến từ xa, và ông đã cố gắng ngồi dậy.
(Xem: 20413)
Xin dâng hết lên Tam Bảo chứng minh và xin Quý Ngài cũng như Quý Vị tùy nghi xử dụng in ấn tiếp tục hay trì tụng cũng như cho dịch ra những ngôn ngữ khác...
(Xem: 17679)
Niệm Phật Tâm Muội do HT Hư Vân soạn, Sa môn Hiển Chơn dịch; Tọa Thiền Dụng Tâm Ký do Viên Minh Quốc Sư soạn, HT Thích Thanh Từ dịch
(Xem: 14041)
Khi Bồ-tát Quán Tự Tại hành sâu Bát-nhã Ba-la-mật-đa, ngài soi thấy năm uẩn đều KHÔNG, liền qua hết thảy khổ ách.
(Xem: 31872)
Viết ra các bài Phật học thường thức này, chúng tôi không có tham vọng giới thiệu toàn bộ Phật pháp và chỉ cốt giúp cho các bạn sơ cơ hiểu được một cách đúng đắn, đạo lý năm thừa trong Phật giáo mà thôi.
(Xem: 12032)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, Kinh văn số 1675. Tác giả: Long Thọ Bồ Tát; Sa Môn Sắc Tử dịch Phạn sang Hán; HT Thích Như Điển dịch Việt
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant