Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

23. Cúng La Hán

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12999)
23. Cúng La Hán

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 5

Bách Trượng Hoài Hải biên soạn vào đời Đường tại Hồng Châu.
Tỳ Kheo Nghi Nhuận chứng nghĩa chùa Chân Tịch tại Hàng Châu
Trụ Trì Diệu Vĩnh chùa Giới Châu duyệt lại tại Việt Thành vào đời Thanh.

Chương 5: Trụ Trì

1.23 Cúng La Hán

Tiếp đãi trai chủ giống như cúng trai phạn tăng, dự định ngày viết thông báo dán tại thiền đường phòng khách. Thông báo rằng, “ngày mai sau khi điểm tâm sáng, đại chúng chuẩn bị cúng La Hán, ban hương đăng coi sóc trên chánh điện, 10 thầy cúng ngọ liệt danh sách như sau: Đại Đức A, B, C,… Chuẩn bị nhang đèn, chân đèn, lư hương, chén bát, đũa muổng, tách trà, cơm nước, bánh trái… lo cho hơn 500 người dự. Người phụ trách trai soạn sắp xếp các Ban nấu nướng, để cung cấp 500 phần ăn. Ngày hôm sau 5 vị phụ trách hương đăng tới nhà kho lấy nước, lấy chén, đèn nhỏ 500 cây, chân đèn 250 đôi, lư hương. Mỗi người coi sóc 100 vị La Hán, trước mỗi vị đặt một tách trà, một đôi đũa, một dĩa quả, một cây đèn. Lư hương 2 vị chung một lư. Nước trà, cơm, bông trái, đèn đặt cúng quanh tượng, rồi mới lên nhang đèn; kế pha trà, hiến thức ăn. Lại mặt tiền chính giữa thiền đường, đặt một bàn vuông lớn, 2 chiếc bàn nhỏ có thể để 16 vị La Hán. Chưng bông trái, nhang đèn, thức ăn đầy đủ. Mỗi vị có một bài vị, một tách trà, một đôi đũa, một chén cơm. Ở phía mặt tiền để chừa ra 3 mét, đặt 3 chiếc bàn dài trên để bì sớ 13 vị nhìn trên dưới, chính giữa; cũng đặt hương đèn và cúng 10 bộ La Hán, mỗi bộ dùng kinh che kín, 10 cái thủ lư đều chuẩn bị sẵn. Tới giờ cúng, vị Tri khách mời 10 Thầy cúng ngọ đắp y hậu tới chỗ thờ A La Hán, kế mời trai chủ niệm hương. Các Thầy đảnh lễ Tam Bảo. Trai chủ lần lượt đến bàn giữa niệm hương, rồi các bàn khác cũng vậy. Duy Na cử tán:

Lư hương vừa ngún, cõi pháp được xông

Khói trầm ngào ngạt một lòng kính dâng

Khắp hòa vũ trụ xa gần

Hoa sen rực rỡ đơm bông cúng dường

Chư Phật, Bồ Tát giáng phàm

Hiện hình La Hán trên vòm Thiên Thai

Vào đời thọ cúng hôm mai…

Nam Mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát.

Duy Na xướng: tất cả cung kính, Chúng cầm hương xướng hoà: “Chí tâm đảnh lễ thập phương pháp giới thường trụ Tam Bảo”.

Duy Na nhập khánh đọc:

Lại nguyện, người chia thành phương tiện từ Gia Hạnh đến vị Đình Tâm, vị như 4 sa môn, do vô học cầu nơi kiến đạo, đó đều biết khổ, đoạn tập, thọ đạo tạo nhân là gốc quyền của tích pháp, hội ngộ lý KHÔNG của con người. Đến như chứng bực Biện địa, vào Đại Thừa môn, chỗ học họ đồng Bát Nhã. Vì thế cùng với Bồ Tát trong giữ kỹ hạnh mật, ngoài nghe âm thanh Phật đạo, đều được gọi là thánh hiền tăng, nên đáng thọ của nhân thiên cúng.

Chỉ mong sao kham thọ Phật phó chúc, ở phương này đủ duyên làm hưng long giáo pháp, đáng cho phàm tình nhận đàn na cúng dường hôm nay. Tuệ chiếu hồi tinh mật, bao bọc bởi lòng thương, cứu khắp chốn mê tình đưa lên miền Cực Lạc.

Đại chúng đọc hòa theo: “Cho nên con nhất tâm kiền thành phụng thỉnh”. Tất cả đồng lạy 1 lạy.

Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp giới thập phương thường trú chư Phật, Pháp, Tăng

Nhất tâm phụng thỉnh Ta Bà giáo chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật

Nhất tâm phụng thỉnh tận hư không biến pháp giới thập phương thường trụ chư Thanh Văn Tăng cùng chư quyến thuộc

Từ đây trở xuống 9 lạy mỗi lạy đều xướng “Nhất tâm phụng thỉnh” và phần cuối thêm “cùng chư quyến thuộc”

…Thường tùy tùng theo Phật, 1250 đại A La Hán, Lộc Uyển trước độ 5 vị tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các vị A La Hán… Đại đệ tử Thế Tôn Ca Diếp, A Nan Đà cùng 10 đại đệ tử… nghe pháp tại Linh Sơn chúng đại tỳ kheo một vạn 2 nghìn đại A La Hán… tại hội Linh Sơn được thọ ký học, vô học chư đại Thanh Văn chúng… Năm thời nghe pháp học, vô học các vị chúng đại Thanh Văn… sau khi Thế Tôn tịch diệt kết tập 3 tạng A Nan Đà và chư vị A La Hán… Hiện thế 16 vị đại A La Hán, 16,900 chúng đệ tử cùng các quyến thuộc. Trú xã… huyện… tỉnh… tên chùa… hiện tại 500 vị A La Hán cùng các quyến thuộc.

Lại nguyện: không trái bổn thệ, thương xót hữu tình, giờ này hôm nay quang lâm đạo tràng, chứng minh công đức.

Thỉnh xong, xá một xá. Trong lúc thỉnh, Duy Na nghĩ tất cả A La Hán đều dùng thiên nhãn soi sáng, thiên nhỉ thấy nghe, tha tâm biết được, oai nghi nghiêm túc từ hư không mà đến đây.

Ngoài ra, bốn mặt thêm huệ đầy đủ thông giáo hai vị, như trên biệt xuất 10 vị nhưng không cần thêm nữa. Thỉnh xong xướng kệ tán thán:

Lần đầu độ 5 người thành Tăng Bảo

Cao đệ đức Thế Tôn đạo ẩm quang

Linh Sơn một hội thật huy hoàng

Chúng vô học một vạn 2 nghìn 

Tu Bạt Đà La độ sau cùng

Năm thời nghe pháp số chúng đông

Hàng Thanh Văn Niết Bàn chứng thông

Ba tạng lưu truyền nhờ công kết tập

16 vị chân nhân được phó chúc

Đời vị lai làm bực phước điền

thường trụ thánh hiền tăng 10 phương

Đều được tôn phụng cúng dường nơi đây.

Tán xong, Duyệt chúng gõ mõ nhỏ đại chúng cùng đọc: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chư tăng, thí chủ đều hướng về Phật điện từ từ bước tới tiến về phía bàn thờ La Hán đi kinh hành một vòng. Xong, đứng tại chỗ ngưng niệm Phật. Đại chúng quỳ và cùng đọc:

Nam Mô thường trụ Phật, Pháp, Tăng, 

Nam Mô bồn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Nam Mô khắp hư không biến pháp giới, 10 phương thường trú chư Thanh Văn tăng.

Nam Mô thường tùy theo Phật 1250 vị đại A La Hán

Kính lễ Lộc Uyển trước Phật độ 5 tỳ kheo, sau cùng độ Tu Bạt Đà La các bậc A La Hán.

Kính lễ hàng cao đệ đức Thế Tôn Đại Ca Diếp, A Nan v.v.. đại A La Hán

Kính lễ chúng đại tỳ kheo nghe pháp tại hội Linh Sơn một vạn 2 nghìn đại A La Hán

Kính lễ các đại Thanh Văn được thọ ký học, vô học tại hội Linh Sơn

Kính lễ chúng đại Thanh Văn đạt học, vô học nghe 5 thời thuyết giáo

Kính lễ A Nan tôn giả, chư vị A La Hán kết tập 3 tạng sau Phật diệt độ

Kính lễ lịch đại Tổ sư, chư vị A La Hán trong thời chánh pháp, tượng pháp sau Phật diệt độ

Kính lễ 16 vị đại A La Hán cùng 16,900 đệ tử A La Hán

Kính lễ hiện trụ 500 vị đại A La Hán đang thờ tại bổn tự.

Lạy xong, tiếp theo đọc chú: biến thực 21 lần, cam lồ 7 lần, phổ cúng dường 7 lần, rồi tiếp:

Nam Mô thập phương thường trú Tam Bảo (3 lần).

Duy Na quỳ đọc sớ như sau:

Lại nghe rằng: Tại rừng chiên đàn mùi thơm phảng phất, nơi hang sư tử đều nghe tiếng gầm vang dội. Dám mong thành khẩn ngưỡng đức từ bi.

Nay tại Úc Đại Lợi, Sydney thành phố, chùa… phụng Phật thiết lễ cúng dường La Hán, mong ân gia hộ đệ tử… pháp danh… tuổi, đầu thành đảnh lễ nhất tâm thượng kính; trung thiên chí thánh Mâu Ni Thế Tôn thường tùy Thánh chúng các vị đại A La Hán trên đài Kim Liên chứng giám cho lòng thành tỏ bày của chúng con.

Lại nghĩ: trí siêu vô lậu, đạo hợp chân không, thần thông thông tỏ trong thoáng chốc ở thiên thượng nhân gian. Bí hiện u thâm, quên hết nổi ưu lo Thanh Văn, Đại thừa; phấn khởi gặp được thắng duyên thấy thánh tướng nơi điện tiền, dâng khiết hương bày tỏ, nghinh phan báu mà cúng phó, mong dũ soi huệ nhãn, doãn nạp tấc lòng thành. Do vậy, nhân nay ngày… tháng… năm… đệ tử cung kính đến chùa… thực tỏ lòng thanh tịnh, nương nhờ đức chúng trai giới nghiêm minh thật tu thiền tịnh. Trên cúng Phật, Pháp, Tăng thường trụ Tam Bảo tại bảo điện bổn tự cúng 500 La Hán hóa thân đại sĩ, các bậc tôn giả Thánh hiền, với chút hương hoa này cúng dường cùng khắp tất cả.

Lại nguyện: pháp môn nổi bật đèn Tổ thêm rạng soi; đàn na tịnh lạc, hải chúng an hòa, mong thương phàm tình toàn nương nhờ từ lực.

Chí thành dâng sớ, cung kính thỉnh Tam Bảo chứng minh, cúng dường La Hán.

Ngày… tháng… năm… Đọc sớ xong, tán rằng: 

Phước đức cúng dường

hạnh cả mênh mông

trong mật ngoài hiển 

mãi mãi lưu phương. 

Thay Phật rộng tuyên dương

thọ lịnh khó quên; 

vào đời làm chiếc thuyền nang.

Nam Mô chư đại A La Hán tôn giả.

Đại chúng về chỗ của mình. Tri Khách mời trai chủ đến phòng khách dùng trà. Chúng hương đăng thu dọn ngay đồ cúng đem xuống nhà trù để sửa soạn cúng dường đại chúng. Những đồ vật khác cất vô kho chờ dịp cúng khác. Hiến cúng đại chúng, ngoài nghi cúng xem thêm nghi thức cúng trai phạn như trên. Sau khi điểm tâm sáng, 10 Thầy đã được phân phiên lên chánh điện cúng ngọ; tới bàn thờ La Hán lễ A La Hán. Lễ lạy La Hán chia nhiều thời, mỗi thời 100 lạy từ số 1 tới số 12 như trên. Xem phần trước có đầy đủ, kế lạy 16 vị La Hán hiện thế.

Chí thành đảnh lễ Tân Đầu Lô Bạt La Đọa Xà tôn giả.

Sau đây mỗi vị đều đọc “Chí thành đảnh lễ”:

Ca Nặc Ca Phạ tha tôn giả

Ca Nặc Ca Bạt triền đọa xà tôn giả

- Tô Tần Tha tôn giả

Nặc Cự La tôn giả

Bạt Đà La tôn giả

Ca Lý Ca tôn giả

Phạt Xà La Phất Đa La tôn giả

- Mậu Bác Ca tôn giả

Bán Thác Ca tôn giả

- La Hổ La tôn giả

Na Già Bỉnh Na tôn giả

- Nhân Kiệt Đà tôn giả

Phạt Na Bà Tư tôn giả

A Thị Đa tôn giả

- Chú Trà Bán thác ca tôn giả.

1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12515)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10414)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12368)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11672)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28840)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12071)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13026)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11474)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12393)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17474)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53110)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35515)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21431)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10704)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19278)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26073)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13337)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14410)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16871)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17613)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13155)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11639)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11644)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20503)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19025)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19627)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18696)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12217)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12342)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13892)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15060)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15056)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14013)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15544)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11419)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15000)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20250)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11747)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15085)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13017)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22915)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11695)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16913)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18367)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11958)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15873)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18936)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18448)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant