Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 11716)
2. Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.2 Lời phụ: qui tắc cạo tóc có 8 điều kiện:

Thành lập đại tòng lâm là vì thập phương đệ tử xuất gia học đạo tu hành; ở đây không nuôi chúng khu ô (Sa di nhỏ tuổi đuổi quạ ) sợ thành cái tệ cho nên tuổi đồng ấu xuất gia đa phần ở am cốc (am tranh cốc lá), tịnh thất thỉnh các vị trụ trì các tòng lâm tới làm thầy truyền giới. Thảng hoặc như người trai trẻ có chí hướng muốn làm đệ tử xuất gia tới tòng lâm xin thế độ (cạo tóc). Sa di này được phép, đây là việc trên hết của chúng, vì nó có liên hệ rất lớn nên không thể không thận trọng chọn lọc người làm nền tảng của bực hiền thánh. Do đó mới qui định 8 điều như sau: 

1- Cha mẹ không cho phép, không được giữ đương sự lại. Biết chắc là người có tâm xuất gia, bảo y nên về nhà xin phép che mẹ; sau khi được hứa thuận mới chấp nhận

2- Không nhận cho xuất gia người phạm pháp bỏ trốn đi tu.

3- Kẻ bị giam giữ (tù tội) không cho tu. Như quan chức cho chí hạng làm công, nếu đạo tâm vững mạnh, hoặc buộc đương sự xin gia ân thả ra; hoặc báo cho chủ nhân biết tin lành nầy, được chủ hứa mới nhận. 

4- Người theo ngoại đạo trà trộn làm lũng đoạn chánh pháp, không cho xuất gia. Các đạo tà như vô vi của Bạch liên giáo, thuật trường sanh, thiên chủ v.v… Nếu người đó hối tâm lỗi lầm trước cho ở chùa thời gian để xem xét nếu đúng thật, mới cho xuống tóc. Như người quan hệ đạo Lão muốn cải qua đạo Thích; nhẫn nại không có tâm khác mới có thể cho xuất gia.

5- Người không có thân nhân, lai lịch bất minh, không cho đi tu. Quán xét căn cơ định đoạt, nếu không quá xa lạ như người thật tâm cầu xuất gia nên cho đương sự quy y Tam Bảo trong vòng vài ba tháng truyền cho 5 giới; đợi đến một năm hoặc 3 năm mới cho xuất gia

6- Sau khi được chấp thuận ở chùa phải học thuộc các thời khóa tụng; siêng năng không lỗi lầm mới cho xuống tóc. Khảo sát không thuộc kinh không cho cạo tóc.

7- Người đã xin xuất gia đối với lễ nghi, phép tắc phải nhất nhất tuân hành. Nếu buông lung phóng đãng, vô loại sàm sỡ khuyên bảo không biết cải đổi, không cho tu. 

8- Xuất giatòng lâm nên tuân theo lệ cấm xưa. Chỉ y theo một người là vị trụ trì; Tăng chúng mỗi người đều không được làm khác, nếu trái cả thầy trò đều ra khỏi viện. 

Ngày… tháng… năm…

Trụ trì… sao lục 

Lời phụ: dâng sớ phụng cúng lễ xuất gia, nội dung như sau:

Từng nghe rằng đức Thế Tôn cắt tóc đi tu, xem ngôi vị đế vương như áo rách. Thánh Tăng xuất gia như đôi cánh chim sổ lồng, nhờ… phàm để nhập Thánh. Mong tự độ để lợi sanh, trên truyền rộng gia phong Phật Tổ mãi mãi làm tai mắt nhân thiên.

Nay tại Úc Đại Lợi… tỉnh… thành phố… chùa… theo nghi cúng Phật, Tỳ kheo thế độ… cầu độ. Sa Di… hôm nay chí thành niệm hương, hướng về đức giáo chủ cõi Ta Bà là Phật Thích Ca mâu Ni, chư Phật, Thánh hiền tại hội Linh Sơn, trên tòa sen báu. Kính cảm thông lời tỏ bày nhân vì cầu xuất gia cho Sa Di pháp danh… tánh danh… sanh ngày… tháng… năm… giờ… Hôm nay là ngày tháng năm… tại chùa… quy y, là đệ tử của thầy Tỳ kheo… đổi tên là… bỏ thế nhiễm thọ giới pháp.

Lại nghĩ: Tân Sa Di… lâu nay ngụp lặn trong đời, chưa hiểu rõ ý niệm xuất trần, thân cận tham học giáo pháp Đại thừa để ngỏ hầu biết lối nhập môn, xé nghiệp buộc ở thế trần, thế thân phàm mắc nơi lưới tục. Phát tâm thoát trần, lập chí xuất gia, may gặp thắng duyên toại thành đại nguyện. Do vậy, kính dâng hiến thanh trai một diên, để tỏ trọn tấc dạ kính thành. Ngưỡng mong hồng ân đoái thương cảm cách. Những nguyện từ quang tỏa chiếu mưa pháp thấm nhuần, làm cho tân Sa Di, được đắp y mang bình bát, làm rường cột cho Phật pháp; học đạo tham thiền, vượt ngoài cõi sanh tử; thân thể kiện khang, tâm tư thanh tịnh, ma chướng không xâm hại. Thật quả là đạt đến diệu môn bất tư nghì, làm người xuất thế đủ cơ duyên chấn chỉnh thượng cơ. Tỏ bày tâm nguyện như trên đây, thật quả như lòng mong mõi. 

Văn Sớ trên đây cúi xin Tam Bảo chứng minh gia hộ cho chúng con trọn thành tâm nguyện.

Ngày… tháng… năm…. 

Tỳ kheo thế độ… cho tân Sa Di… dâng sớ.

Chứng nghĩa ghi cổ nhơn nói rằng xuất gia chính là việc của bậc đại trượng phu, nếu chẳng phải tướng ấy đâu đảm đương được! 

Ngài Vân Thê Liên Trì nói rằng, tướng lấy võ công ổn định loạn; văn dùng văn học đem lại thái bình. Việc trong thiên hạ đều do tay các tướng văn võ cả; nhưng Ngài nói rằng xuất gia chẳng phải việc làm của văn võ. Nhưng mà xuất gia đâu lại quá hạn hẹp vậy sao! 

Dựa theo lời ngài Vân Thê dẫn mà không luận, bởi vì người xuất gia vì muốn vượt dòng sanh tử lên bờ giác; trải qua vô số kiếp bị xoay vần. Một sớm giải thoát được lợi mình lợi người, độ sanh vô số mà khởi đầu ở một niệm xuất gia. Vì thế, ở đây nói chẳng phải việc nhỏ vậy! Bậc cao nhơn xưa nêu chỗ thấy nầy nên nói xuất gia đều do đại nhân duyên 10 phần được đại hoan hỷ. Như cá thoát cạn, chim bay trong bầu trời; có đủ tâm địa rộng lớn trong hết thảy các hạnh. Nhẫn đến 10 giới, 250 giới, Bồ Tát giới: 10 giới trọng, 48 giới khinh v.v… tuân thủ thực hành không biết mỏi mệt. 

Nay thời không được như vậy, cha mẹ hoặc do nghèo khổ mà cho con vào chùa xuất gia, hay bản thân đương sự gặp việc rắc rối, bức báchmiễn cưỡng muốn đi tu, kỳ thực lúc đầu chưa từng phát tâm chân thật. Cho nên về sau người như thế cũng chẳng thật sự được an lạc. Hoàn toàn trông nhờ nơi vị thầy, trước hết thầy nhận y cứ theo giới luật, rồi theo thời gian thêm lời dạy bảo; theo đó bỏ dần thói quen để đạo tâm kiên cố. Tâm con người do giáo huấnthấm nhuần mỗi khi một ít, ngỏ hầu kỳ vọng tánh tốt ngày càng tiến triển xa hơn

Luật Ngũ Phần, Phật dạy Ngài Xá Lợi Phất hướng dẫn La Hầu La, trước truyền 5 giới Ưu Bà Tắc, sau mới cho cạo tóc thọ 10 giới Sa Di. Việc xuất gia thọ giớimô phạm đầu tiên. Cớ gì ngày nay xuất gia phần nhiều người đã chẳng phát tâm mà được làm thầy. Cũng chẳng nhọc suy nghĩ tới nguồn gốc, thầy có dạy khuyên gì là đệ tử theo học. Những người với tâm lợi dưỡng háo danh do sự thù ứng ngoài đời. Người thật sự vì cầu thoát ly sanh tử muốn độ mình, độ người có khác, tức là giá như lúc đầu không lập nguyện rốt cuộc hỏng phế cả. Nghĩa là vì việc thọ giới ắt hẳn phải đủ 3 đàn nói chung mới truyền giới. Không cứ y bát thiếu đủ hay sự cố xảy ra giới đàn phải đình hoản lại chờ một năm sau. Người chưa thấm nhuần giới, giới thiếu kém nhưng được chính thức đăng đàn thọ giới và còn nhiều việc nữa, tệ xấu trái với Phật pháp, là một sự cố. Không dứt khoát một cách miễn cưỡng vẫn tiến hành thọ giới cho xong việc mà thôi. Ôi ! Thọ giới cả trăm nghìn mà đắc giới có được mấy người! Phật pháp suy đồi do việc sai trái truyền giới này vậy. Thiết nghĩ trong đây cả thầy, trò đều phạm sai lầm cả, nhưng lỗi Thầy hẳn nhiều hơn. 

Sách Thiền Lâm Bảo Huấn Ngài Hoàng Long nói: Cha nghiêm con kính. Sự giáo huấn ngày nay làm mẫu mực cho ngày sau; cũng giống như sửa sang lại các thế đất; chỗ lồi nên hạ xuống nơi lõm lấp san bằng. Người sắp leo núi cao nghìn trượng ta cũng có lời khuyên như thế. Kẻ khốn khổ ở trong 9 châu cũng như vậy. Tài năng đạt đến cùng, dối gian tự chấm dứt, đến một lúc người ta phải tự ngừng. Cũng nói: hoài bão đấy lão bà ấy; tiết xuân hạ phát dục. Sương đó tuyết đó mới thấm nhuận thu đông. Thầy không giáo huấn phỏng có được không? Y cứ theo kinh Mục Liên vấn Phật: Vào thời Phật Ca Diếp có một Tỳ Kheo độ đệ tử mà không dạy khuyên để làm nhiều việc phi pháp. Người đệ tử chết tái sanh làm hỏa long thành con rồng lửa, trong bảy ngày lấy lửa thiêu xác, thịt da cháy sạch chỉ còn lại xương. Sau đó rồng hoàn hình như cũ, lần nầy lại thiêu cháy mà không chịu nóng nỗi bèn quán thấy đời trước mình làm vị sa môn không giữ giới luật, thầy không dạy dỗ, liền giận bổn sư nghĩ muốn làm hại. Về sau, sư cùng với 500 người qua biển bị con rồng tới cản thuyền. Mọi người trên thuyền hỏi: 

- Vì sao cản thuyền? 

- Đáp: Các ông hãy ném Tỳ Kheo đó xuống, tôi mới để các ông đi.

Hỏi rằng: Tỳ kheo can dự gì ngươi? Sao không đòi ném những người khác mà chỉ ném một người này? 

- Đáp: Vì y vốn là thầy tôi không dạy dỗ, nên nay tôi phải chịu thống khổ. Vì thế, tôi yêu cầu đó. Mọi người thấy tình thế nguy cấp chuẩn bị ném vị tỳ kheo xuống nước. 

Vị Tỳ kheo nói:

- Không cần ai ném, để tôi tự xuống nước; rồi tự gieo mình xuống dòng nước mất dạng. 

Mọi người đi được an toàn. Lấy đó suy nghiệm: không khuyên dạy đệ tử bị hại không phải nhỏ vậy. Ngoài ra, Kinh Ưu Bà Tắc ghi rằng, cho thọ giới bừa bãi trong một ngày giết vô số mạng sống; cho nên quyết không nuôi đệ tử mà không dạy dỗ. Kinh Thiện Giới ghi: bọn Chiên Đà La và người hàng thịt, tuy hành nghề ác nhưng không phá hoại giáo pháp của Phật, hẳn không nhất định đọa trong ba đường ác. Nhưng làm thầy không dạy đệ tửphá hoại Phật pháp, ắt đọa địa ngục. Do quán xét như thế, Sa Di được thọ giới chính là nhân duyên lớn quan hệ của Phật pháp. Người thọ giới mà không hành trì còn hơn là lỗi không dạy, huống nữa thầy không dạy khuyên hình đồng Sa Di giống như bạch y cư sĩ. Nếu không đặt nền móng trước quyết không thể xây lên lầu cao gác rộng được. Đi càng xa, hại càng nhiều mà còn bị chướng ngại vượt bực. Đó há chẳng phải là thầy của sự sai quấy hay sao? 

Nay qui định đúng việc xuất gia như luật sư Kiến Nguyệt hiệu đính tại núi Hoa Sơn Giang Nam, trên hợp lời Phật dạy, dưới hợp thời cơ, thật là đẹp, hợp pháp. Như con giòng họ Thích chúng ta nên cùng nhau gìn giữtuân hành đúng vậy.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12515)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10414)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12366)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11672)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28839)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12070)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13025)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11472)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12392)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17473)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53109)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35515)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21430)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10703)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19277)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12444)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26072)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13337)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14409)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16105)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13743)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16870)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17610)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13154)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12552)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11636)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11641)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14523)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20502)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19023)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19625)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18695)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12216)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12342)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13891)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15059)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15056)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14012)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15543)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11417)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17214)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 14999)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20248)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14637)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13885)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11747)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15084)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13016)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22914)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14577)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11694)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13186)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16912)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18367)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11958)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11517)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15873)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12900)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18936)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18447)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant