Chương tám: Tuổi đạo
Tiếp theo vị thủ tọa nói: lễ Thầy Duy Na, thầy Duyệt Chúng mỗi vị 3 lạy. Phàm pháp quyến của bổn tự cùng chư sơn các chùa viện xa gần đến tu thất, tức vào nhà phụ ở sau. Nếu cư sĩ tu thất đặt đơn bên ngoài. Người tu thất nhất loạt phải theo chúng đến mãn thất mới được phép ra khỏi viện. Ni và người nữ không được phép vào thiền đường; có các vị tôn khách hay thí chủ tùy hỷ tọa hương, không nêu ra ở đây. Lễ xong, thầy Duy Na nói: 2 dãy liêu đồng tọa thất quý Thầy đảnh lễ A - B Hòa Thượng. Mời Hòa Thượng tôn túc thuyết pháp mở đầu kỳ nhập thất. Ban ẩm thực nhà trù nấu thức ăn xong phân ra tô dĩa, ban hộ thất bưng dọn lên bàn (hoặc cơm hay mì tùy ý). Tới giờ điểm tâm nghe hiệu lệnh chúng vào trai đường ngồi theo vị trí, niệm Phật rồi dùng bửa. Mỗi ngày 4 buổi tọa thiền, thiền hành: Duyệt chúng luân phiên hướng dẫn khóa tu theo khuôn khổ nề nếp trang nghiêm. Chương trình mỗi ngày giống nhau. Nếu trong kỳ thất có thí chủ cúng linh tinh cho chúng dùng phụ, nên tùy thời sắp xếp cho tới mãn thất. Tới ngày thứ sáu, duyệt chúng dẫn theo hai người đến phòng Phương Trượng thỉnh ngày hôm sau giải thất, hoặc mời Ban Thủ thay thế giải thất. Phàm thiền thất, tham khảo sư cả, chỉ ghi nhận ý chính để lợi ích cho người học. Một người tiểu tham thoại đầu không cho phép làm xáo trộn công án. Phàm đứng hương người đứng phải đứng hai chân cho đều, không được đứng chữ bát so le, 2 tay buông xuống, không được xoa tay. Đi kỵ xăn tay áo, ngồi kỵ vén quần. Phàm thiền thất lấy giờ khắc làm chứng, hiểu rõ việc sanh tử, chuyên vào việc tham thiền là chính. Quản chúng không được nói nhiều làm trở ngại việc chánh (tu thiền).
Giờ quá đường (dùng cơm trưa), khởi hương, bỏ hương, đứng hương… Duy Na đều gõ bảng hiệu 3 hồi, tuần hương chỉ đánh lúc có người ngủ gật (đập vào vai cho tỉnh dậy). Thủ tòa coi tổng quát quán sát đại chúng để sách tấn thiền giả. Cho nên người đi tuần hương phải cầm hai tay, không được thả một tay. Giám hương một tay thả xuống không được đưa hương xuống quá thấp, nên tưởng cho hợp cách cúng dường. Hai tay dù đưa cao hay thấp không thành vấn đề, miễn gặp người cựa quậy, hôn trầm đều đập lên vai phía sau.
Chứng nghĩa ghi rằng ở tòng lâm quanh năm tọa hương tham thiền, sao lại còn có thiền thất? Vì muốn ghi đậm nét thời kỳ tu tập là ý này. Kẻ học giả thời đại ngày nay đang ỷ mạnh trước tình trạng Phật giáo. Đối chiếu với ngày thường nên gia tâm tham thiền gấp đôi ba lần. Người tham thiền tức là tham cứu một câu thoại đầu. Tham thoại đầu không ngoài việc khởi nghi tình. Cho nên mới có câu rằng: tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ (nghi nhỏ ngộ nhỏ, nghi lớn ngộ lớn), không nghi không ngộ. Nghi tức là tham vậy, luận về niệm của nghi, đó là chướng của thể giác mà nhân là lợi thế người tham được thiện dụng. Trái lại có thể mượn đó để như cái thuật phá chướng ngại. Bởi lấy nghi đó cho người ngộ cơ hội dễ dàng mà tư thế là giúp người. Cho nên người muốn ngộ hẳn quí chỗ nghi. Luận về cơ nhân tâm không ngưng trệ, chắc chắn không thể khai thông suốt được. Như thạnh đông đóng cửa chặc thành như núi Thái Nguyên. Như hơi thở không khí không đủ thì sẽ sanh ích tắt, không đủ sức, cho nên quí nhất là nghi. Nghi thời bị ngăn chặn, không thể đi sâu vào nguồn chân của pháp giới, hẳn không đạt đến sâu sắc được. Cho nên hễ người nghi chắc hẳn nghiền ngẫm, nên biết nghi là nhân của ngộ, ngộ là quả của nghi. Trái ngược như tối phải có sáng, hít vào ắt thở ra vậy! Sao không nghi chứ! Sao không nghi chứ! Do chỗ nghi mà ngộ thời ngộ lại chẳng tồn tại, đối với nghi hẳn phải tôi luyện mới thành công được.Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.
Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:
Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,
Viên dung vô ngại khó thể so lường,
Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,
Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.
Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).
Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:
Cửa trời im ỉm chẳng mở thông
Ngày đêm thê thiết nổi gió giông
Trừ dứt tai ương dân ước nguyện
Hợp thời hé lộ một vừng hồng
Là một trong bốn châu thiên hạ
Châu Nam Thiệm người người chờ mông.
Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.
Lại nguyện:
Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu
Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên
Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh
Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên
Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên
Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.
Ngày…tháng…năm... Phật lịch...
Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.
Duy Na cử bài tán:
Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,
Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,
Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,
Khắp nơi rải sáng an lành,
Vạn vật vui đón bình minh.
Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).
Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật
Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát
Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)
Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.
Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.
Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.