Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Vía Địa Tạng Thánh Đản

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 16774)
12. Vía Địa Tạng Thánh Đản

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển ba
Báo đáp nguồn gốc

1. Chương ba: Báo Đáp Nguồn Gốc

1.12 Vía Địa Tạng Thánh Đản

Ngày 30 tháng 7 âm lịch là vía Địa Tạng đản sanh. Sau thời Kinh Lăng Nghiêm sáng, tới phần đảnh lễ Phật, Trụ Trì niệm hương, cắm hương lên lư. Duy Na cử tán: Lư hương… Nghi thức giống như Phật Dược Sư. Niệm:

Nam Mô Đại Từ Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo tụng Kinh Địa Tạng bổn nguyện, bài kệ phẩm thấy nghe được lợi ích như sau:

Ta quán Địa Tạng lực oai thần

Vô số kiếp nói không cùng tận

Thấy nghe đảnh lễ trong một niệm

Lợi lạc trời người khó định phân

Hoặc nam hoặc nữ hoặc long thần

Hết báo thân phải đọa đường ác

Chí tâm quy y Đại sĩ thân

Tuổi thọ thêm tăng trừ tội chướng

Sớm mất mẹ cha, biệt người thân

Chưa rõ thần hồn nương chốn nào?

Anh em, chị em và thân nhân

Trưởng thành tới nay chưa nhận rõ

Hoặc vẽ hoặc họa Đại sĩ thân

Niệm lễ thiết tha không rời bỏ

Hăm mốt ngày niệm hiệu ân cần

Nhiều thân hình Bồ Tát hiện ra

Cho biết nơi nào quyến thuộc sanh

Giá rơi ác thú tìm cứu sạch

Nếu ai không lui sụt sơ tâm

Liền được sờ đầu truyền Thánh ký

Người muốn tu vô thượng Bồ Đề

Nhẫn đến 3 cõi khổ thoát ly

Chính là đã phát tâm đại bi

Trước nên quán lễ tượng Đại sĩ

Hết thảy các nguyện sớm đạt thành

Nghiệp chướng toàn dứt chẳng còn chi

Có người phát tâm tụng kinh điển

Muốn qua bờ giác độ quần sanh

Duy lập nguyện này khó ví sánh

Đọc rồi quên rồi phế bỏ nhanh

Người này bị nghiệp chướng trói buộc

Kinh điển Đại Thừa chẳng nhớ rành

Cúng dường Địa Tạng với hương hoa

Y phục, uống ăn, tọa cụ

Nước trong trước Đại sĩ bày ra

Một ngày một đêm đem uống đó

Phát lòng tôn trọng cử cay nồng

Rượu thịt, tà dâm, vọng ngữ không

Trong 21 ngày chớ sát sanh

Hết lòng niệm tưởng Đại sĩ danh

Trong mơ thấy nhiều loại tướng hình

Tỉnh ra mới biết ấy điềm lành

Đúng lúc tai nghe dạy đọc Kinh

Chẳng quên trong ngàn vạn lần sanh

Do vì Đại sĩ khó nghĩ suy

Hay khiến người này đạt tuệ trí

Chúng sanh nghèo cùng và tật bệnh

Quyến thuộc chia ly, nhà cửa suy

Trong cơn mộng mị thấy bất an

Người cầu sai quấy không toại ý

Chí tâm niệm lễ tượng Địa Tạng

Mọi điều xấu ác đều tiêu tan

Thậm chí giấc mơ được bình an

Y, thực dồi dào quỉ thần can

Vào núi rừng, qua biển an toàn

Cầm thú độc và người hung ác

Ác thần, ác quỉ và gió độc

bao nhiêu khổ não hết thảy nạn

Chỉ nên lễ lạycúng dường

Bồ Tát Địa Tạng đại sĩ tượng

Như vào núi rừng, hoặc đại dương

Bấy giờ các ác đều tiêu sạch

Quan Âm lắng nghe Ta giảng tường

Địa Tạng sâu rộng khó nghĩ lường

Trăm nghìn vạn kiếp nói không cùng

Lực Đại sĩ đây rộng tuyên dương

Người nào nghe được danh Địa Tạng

Nhẫn đến chí tâm kính lễ thường

Dâng y phục, ẩm thực, hoa hương

Nhận trăm nghìn phước báu cúng dường

Hay chỉ nhân đây cầu pháp giới

thành Phật thoát sanh tử đại dương

Vì thế Quan Âm ngươi nên biết

Báo cho khắp hết các cõi tường.

Tiếp tụng: 

Án Tam Đà ra già đà ta bà ha (108 lần). 

Duy Na bạch:

Lại vì gió vàng chuyển động, mở khai điềm tốt kim dung, sương ngọc thấm nhuần, hiển bày tướng đẹp ngọc hào. Đại sĩ đản sanh lung linh tuyệt đẹp. Trăng thu vừa tắt, ngước lên khắp bầu trời sáng tỏ, thánh đức trong sáng hồng ngọc. Nghĩ lại chúng con đang ở đời mạt pháp, tội lỗi chồng chất, mong thoát vòng khổ, ắt nhờ gió lành phủi quét được lên cõi an vui, toàn nương ánh từ để thong dong tự tại. Nay gặp lúc Hoa Đàm xuất hiện, kính dâng hương hoa phụng hiến. Đệ tử chúng con lại nguyện: gậy vàng hươi sáng, minh châu chiếu rạng; cuồng si u ám, mở ngục sắt không môn; nóng bứt trừ sạch; ngôi nhà lửa tiêu tan. Trời người đều lợi lạc, âm dương thảy nhờ ân.

Bạch xong, cử tán:

Đại sĩ Địa Tạng nguyện rộng sâu

Phá thành sắt bằng ngọc minh châu

Gậy vàng dộng u minh thông thấu

Đảnh lễ tôn tượng niệm xưng danh

Vô số cõi chan hòa tiết trời xuân 

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát (3 lần).

Chứng nghĩa ghi sự độ sanh của Ngài Địa Tạng theo các Kinh Bồ Tát Địa Tạng bổn nguyện, Địa Tạng thập luân Chiêm Sát thiện ác nghiệp báo v.v.. mà bản kinh sau thuyết minh đầy đủ. Nay nêu lên sự tích Ngài ở Đông độ như sách Thần Tăng truyện ghi: đức Phật diệt độ 1500 năm, Địa Tạng giáng sanh vào nước Tân La, nhà họ Kim tên là Kiều Giác vào năm Vĩnh Trưng thứ tư. Năm lên 24 tuổi cạo tóc dắt theo bạch khuyển khéo vâng lời theo tàu buôn ra biển. Đến vùng núi Cửu Hoa, huyện Thanh Dương, phủ Trì Châu Đông, tỉnh Giang Nam, tọa thiền trên núi Cửu Tử sơn tuế nguyệt 75. Năm Khai Nguyên thứ 16, đêm 30 tháng 7 Ngài thành đạo năm 99 tuổi. Lúc bấy giờ có bậc kỳ lão, Mẫn Công rất thiện cảm nghĩ tưởng đến. Mỗi lần mời 100 vị tăng dự cúng trai tăng, hẳn còn thiếu một vị, nên mời vị tăng tu trong động cho đủ số. Vị này bèn xin một mãnh đất bằng áo cà sa, Mẫn Công ưng thuận. Y phủ giáp núi, Công hết sức lấy làm hoan hỷ. Người con trai Mẫn Công cầu xin xuất gia tức là Hòa Thượng Đạo Minh. Mẫn Công về sau cũng bỏ tục xuất gia, lại bái người con làm thầy, cho nên nay hầu bên tượng mà bên trái là Đạo Minh, còn bên phải là Mẫn Công, đó là sự tích này vậy…

Bồ Tát nhập định 20 năm đến năm Chí Đức thứ 2 vào ngày 30 tháng 7 hiển thánh bước ra khỏi tháp, đến nay trở thành một đại đạo tràng. Hiện Quả Lục ghi rằng: chúng tôi là Vương Kiến một hôm không có bịnh bổng lìa đời. Có một người áo xanh dẫn đến minh phủ trình thưa khúm núm. Kết quả là bắt lầm Vương Kiến ở núi Đông. Do đó cho thả ra khỏi điện Minh phủ, thấy địa ngục Hắc Diệm ở giữa không, gào thét như sấm vang, có 3 lão tăng ngồi thiền bên cây sao dùng tịnh thủy rảy nước cho. Ngục tốt nghiến răng hét lớn: hãy dừng lại. Kế phía trước có viên tuần đi qua đó là Quan Âm, Phổ HiềnĐịa Tạng vậy. Y cứ theo tích đây có thể thấy trong Kinh Địa Tạng nêu rõ: niệm danh hiệu Địa Tạng, lễ tượng Địa Tạng được phước tiêu tội, thật không thể nghĩ bàn.
 
 

Hết quyển ba.

[1] Bốn tâm: tức là 4 tâm bao dung rộng lớn thương yêu khắp hết mọi loài chúng sanh. Đó là: tâm từ vô biên, tâm bi không giới hạn, tâm hỷ và tâm xả không cùng tận.

[2] Ba đức: có nhiều lối giải thích như Kinh Niết Bàn giải thích là: đức pháp thân, đức bát nhã và đức giải thoát. Theo khía cạnh tự lợi, lợi tha của Phật giải ba đức là: Trí đức: dứt sạch hết vô tri đủ vô thượng Bồ đề; Đoạn đức: đoạn sạch phiền não có thừa vô thượng Bồ đề; Ân đức: có thừa đức đại bi cứu giúp tất cả chúng sanh.

[3] Ngũ phước: 5 phước báu trên đời này là: giàu có, khỏe mạnh, sắc đẹp, sống thọ, chết được an lạc.

[4] Long Hoa tam hội: ba hội Long Hoa do đức Phật Di Lặc tương lai giáng sinh nơi cõi Ta Bà này, sau khi đắc đạo sẽ mở 3 pháp hội tại rừng cây thân rồng trổ hoa màu vàng, được mệnh danh là hội Long Hoa kỳ một, độ cho chúng sanh hạ căn hạ trí, hội thứ nhì độ hạng trung căn và hội thứ ba độ kẻ thượng căn thượng trí.
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12557)
Ấn là chiếc ấn hay khuôn dấu. Pháp có nghĩa là chánh pháp hay toàn bộ hệ thống tư tưởng trong lời dạy của Đức Phật được ghi lại trong ba tạng thánh điển. Pháp ấn có nghĩa là khuôn dấu của chánh pháp
(Xem: 10465)
Đây là Kinh thứ 16 của Nghĩa Túc Kinh và cũng có chủ đề “Mâu Ni”: Một vị mâu ni thấy như thế nào và hành xử như thế nào khi đứng trước tình trạng bạo động và sợ hãi?
(Xem: 12411)
Các nhà học giả Tây phương cũng như Đông phương đều công nhận hệ thống Bát-nhã là cổng chính yếu dẫn vào Đại thừa.
(Xem: 11714)
Mỗi khi nói về vấn đề niềm tin trong đạo Phật, chúng ta thường hay dẫn chứng những lời Phật dạy trong kinh Kalama.
(Xem: 28889)
Kinh Quán Thế Âm bồ tát cứu khổ nằm trong Vạn tự chánh tục tạng kinh, ta quen gọi là tạng chữ Vạn, quyển1, số 34. Kinh này là một trong những kinh Ấn Độ soạn thuật, thuộc Phương đẳng bộ.
(Xem: 12105)
Trong Kinh Kim Cang có câu, “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai.” Nghĩa là, nếu thấy các tướng đều xa lìa tướng, tức là thấy Phật.
(Xem: 13074)
Kinh Kim Cương (hay Kim Cang), tên đầy đủ là Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật Đa (Vajracchedika-prajñaparamita), là một trong những bài kinh quan trọng nhất của Phật giáo Đại Thừa
(Xem: 11506)
Trong sách Nhật Tụng Thiền Môn, chúng ta có Kinh Phước Đức, một Kinh nói về đề tài hạnh phúc. Kinh được dịch từ tạng Pali và nằm trong bộ Kinh Tiểu Bộ (Khuddhaka-nikāya).
(Xem: 12434)
Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật là một bộ kinh hoằng dương rất thịnh, phổ biến rất rộng trong các kinh điển đại thừa.
(Xem: 17523)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 53194)
Phương pháp sám hối Từ bi đạo tràng Mục Liên Sám Pháp - Nghi Thức Tụng Niệm
(Xem: 35581)
Từ bi Đạo Tràng, bốn chữ ấy là danh hiệu của pháp sám hối nầy... Thích Viên Giác dịch
(Xem: 21547)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 10734)
Năm 1984 khi bắt đầu lạy kinh Ngũ Bách Danh bằng âm Hán Việt thuở ấy, tôi không để ý mấy về ngữ nghĩa. Vì lúc đó lạy chỉ để lạy theo lời nguyện của mình.
(Xem: 19354)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 12484)
Một trong những bộ kinh quan trọng nhất của hệ tư tưởng Phật giáo Bắc truyền, không những có ảnh hưởng to lớn đối với tín đồ Phật giáo mà còn lôi cuốn được sự quan tâm của giới nghiên cứu, học giả Đông Tây, là Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
(Xem: 26176)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 13408)
Tác phẩm này có thể là hành trang cần thiết cho những ai muốn thực hành Bồ Tát giới theo đúng lời Phật dạy. Vì vậy, tôi trân trọng giới thiệu đến Tăng, Ni, Phật tử.
(Xem: 14468)
Nguyên tác Phạn ngữ Abhidharmakośa của Thế Thân, Bản dịch Hán A-tỳ-đạt-ma-câu-xá luận của Huyền Trang - Việt dịch: Đạo Sinh
(Xem: 16148)
Vào khoảng thời gian Phật ngự tại nước Tỳ Xá Ly, gần đến giờ thọ trai Ngài mới vào thành khất thực. Bấy giờ trong thành Tỳ Xá Ly có một chàng ly xa tên là Tỳ La Tứ Na (Dõng Quân).
(Xem: 13786)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp, Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ, Ngã kim kiến văn đắc thọ trì, Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa.
(Xem: 16926)
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bách thiên vạn kiếp nan tao ngộ Ngã kim kiến văn đắc thọ trì Nguyện giải Như Lai chân thật nghĩa
(Xem: 17709)
Vào khoảng 150 năm sau khi Bụt nhập Niết bàn, đạo Bụt chia thành nhiều bộ phái, kéo dài mấy trăm năm. Thời kỳ này gọi là thời kỳ Đạo Bụt Bộ Phái.
(Xem: 13233)
Nói đến kinh Pháp Hoa, các vị danh Tăng đều hết lòng ca ngợi. Riêng tôi, từ sơ phát tâm đã có nhân duyên đặc biệt đối với bộ kinh này.
(Xem: 12597)
A-hàm có thể đẩy tan những dục vọng phiền não đang thiêu đốt chúng ta và nuôi lớn giới thân tuệ mạng thánh hiền của chúng ta...
(Xem: 11682)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sanh ở Ấn Độ, nên thuyết pháp đều dùng Phạn ngữ, Kinh điển do người sau kiết tập cũng bằng Phạn văn. Những bổn Kinh Phật bằng Trung văn đều từ Phạn văn mà dịch lại.
(Xem: 11695)
Có rất nhiều công trình thâm cứu có tính cách học giả về tác phẩm nầy dưới dạng Anh ngữ, Nhật ngữ và Hoa ngữ liên quan đến đời sống, khái niệm nồng cốt của tư tưởng Trí Khải Đại Sư trong mối tương quan với Phật giáo Trung Quán
(Xem: 14586)
Luật học hay giới luật học là môn học thuộc về hành môn, nhằm nghiên cứuthực hành về giới luật do đức Phật chế định cho các đệ tử
(Xem: 20588)
Quyển sách “Giáo Trình Phật Học” quý độc giả đang cầm trên tay là được biên dịch ra tiếng Việt từ quyển “Buddhism Course” của tác giả Chan Khoon San.
(Xem: 19134)
Tam Tạng Thánh Điển là bộ sưu tập Văn Chương Pali lớn trong đó tàng chứa toàn bộ Giáo Pháp của Đức Phật Gotama đã tuyên thuyết trong suốt bốn mươi lăm năm từ lúc ngài Giác Ngộ đến khi nhập Niết Bàn.
(Xem: 19670)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18789)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 12256)
Kinh này dịch từ kinh Pháp Ấn của tạng Hán (kinh 104 của tạng kinh Đại Chính) do thầy Thi Hộ dịch vào đầu thế kỷ thứ mười.
(Xem: 12400)
Đại Chánh Tân Tu số 0158 - 8 Quyển: Hán dịch: Mất tên người dịch - Phụ vào dịch phẩm đời Tần; Việt dịch: Linh-Sơn Pháp Bảo Đại Tạng Kinh
(Xem: 13949)
Là Bộ Luật trong hệ thống Luật-Tạng do Bộ Phái Nhất Thiết Hữu thuộc hệ Thượng Tọa Bộ Ấn Độ kiết tập...Đại Tạng No. 1451
(Xem: 15150)
“Triệu Luận” là một bộ luận Phật Giáo do Tăng Triệu, vị học giả Bát nhã học, bậc cao tăng nổi tiếng đời Hậu Tần Trung Quốc, chủ yếu xiển thuật giáo nghĩa Bát nhã Phật Giáo.
(Xem: 15115)
Bộ chú giải này là một trong năm bộ luận giải thích về luật trong Luật bộ thuộc Hán dịch Bắc truyền Đại tạng kinh lưu hành tại Trung quốc và được đưa vào Đại chính tân tu Đại tạng kinh N.1462, tập 24 do Nhật bản biên tập.
(Xem: 14046)
Dịch theo bản in lần thứ nhất của Hoa Tạng Phật Giáo Đồ Thư Quán, Đài Bắc, tháng 2, năm Dân Quốc 81 - 1992
(Xem: 15588)
Hữu Bộ là một trường phái Phật Giáo quan trọng. Nếu không kể Thượng Toạ Bộ (Theravada, Sthaviravada) thì Hữu Bộbộ phái Phật Giáo duy nhất có được một hệ thống giáo lý gần như nguyên thuỷ...
(Xem: 11479)
Tôi nghe như vầy vào khoảng thời gian đức Phật ngự tại tinh xá Kỳ Hoàn thuộc nước Xá Vệ có ngàn vị tỳ theo tăng và mười ngàn đại Bồ tát theo nghe pháp.
(Xem: 17280)
Biện chứng Phá mê Trừ khổ - Prajnaparamita Hrdaya Sutra (Bát-nhã Ba-la-mật-đa Tâm kinh); Thi Vũ dịch và chú giải
(Xem: 15064)
Là 2 bản Kinh: Kinh Phật Thuyết A Di Đà No. 366 và Kinh Xưng Tán Tịnh Độ Phật Nhiếp Thọ No. 367
(Xem: 20312)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 14683)
Như thật tôi nghe một thuở nọ Phật cùng các Tỳ kheo vân tập tại vườn cây của Trưởng giả Cấp cô ĐộcThái tử Kỳ Đà ở nước Xá Vệ.
(Xem: 13928)
Kinh này dịch từ kinh số 301 trong bộ Tạp A Hàm của tạng Hán. Tạp A Hàm là kinh số 99 của tạng kinh Đại Chính.
(Xem: 11789)
Đây là những điều tôi đã được nghe: Hồi ấy, có những vị thượng tọa khất sĩ cùng cư trú tại vườn Lộc Uyển ở Isipatana thành Vārānasi. Đức Thế tôn vừa mới nhập diệt không lâu.
(Xem: 15124)
Kinh Mục Kiền Liên hỏi năm trăm tội khinh trọng trong Giới Luật; Mất tên người dịch sang Hán văn, Thích Nguyên Lộc dịch Việt
(Xem: 13049)
Hán dịch: Hậu Hán, Tam tạng An Thế Cao người nước An Tức; Việt dịch: Tì-kheo Thích Nguyên Chơn.
(Xem: 22960)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0434;, dịch Phạn sang Hán: Nguyên Ngụy Thiên Trúc Tam Tạng Cát-ca-dạ; Dịch Hán sang Việt và chú: Tỳ-kheo Thích Hạnh Tuệ...
(Xem: 14614)
Người giảng: Lão Pháp Sư Tịnh Không. Giảng tại: Tịnh Tông Học Hội Singapore. Người dịch: Vọng Tây cư sĩ. Biên tập: Phật tử Diệu Hương, Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 11739)
Kinh này là kinh thứ mười trong Nghĩa Túc Kinh, nhưng lại là kinh thứ mười một trong Atthaka Vagga, kinh tương đương trong tạng Pali.
(Xem: 13221)
Có thể xem đây là "tập sách đầu giường" hay "đôi tay tỳ-kheo"; rất cần thiết cho mỗi vị Tỳ-kheo mang theo bên mình để mỗi ngày mở ra học tụng cho nhuần luật nghi căn bản.
(Xem: 16962)
Không Sát Sanh là giới thứ nhất trong Ngũ Giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới bất toàn, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, giết chóc tràn lan khắp nơi.
(Xem: 18412)
Kể từ khi đạo Phật truyền vào nước ta, hàng Phật tử tại gia trong bất cứ thời đại nào và hoàn cảnh nào cũng đã có những đóng góp thiết thực trong sứ mạng hộ trìhoằng dương chánh pháp.
(Xem: 11995)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn đềliên quan đến cuộc sống...
(Xem: 11566)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, Trưởng lão Māhakassapa (Ma-ha Ca-diếp) triệu tập 500 vị Tỳ-khưu A-la-hán để trùng tụng Pháp và Luật.
(Xem: 15922)
Bồ Tát Long Thọ - Cưu Ma La Thập Hán dịch; Chân Hiền Tâm Việt dịch & Giải thích; Xuất Bản 2007
(Xem: 12953)
Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai.
(Xem: 18984)
Vị Tăng, lấy Phật làm tính, lấy Như-Lai làm nhà, lấy Pháp làm thân, lấy Tuệ làm mệnh, lấy Thiền-duyệt làm thức ăn.
(Xem: 18527)
Trong Vi Diệu Pháp cả danh và sắc, hai thành phần tâm linhvật chất cấu tạo guồng máy phức tạp của con người, đều được phân tách rất tỉ mỉ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant