Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

8. Đạo cụ

30 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12524)
8. Đạo cụ

BÁCH TRƯỢNG TÒNG LÂM THANH QUY
Việt dịch: Sa môn Thích Bảo Lạc 
Chùa Pháp Bảo Sydney và Chùa Viên Giác Đức Quốc xuất bản PL. 2552 DL 2008

Quyển 7

Gồm có 2 phần thượng và hạ
Đời Đường Hồng Châu, Sa Môn Bách Trượng Hoài Hải biên tập
Đời Thanh Tỳ Kheo Nghi Nhuận chùa Chân Tịnh Hàng Châu chứng nghĩa
Ngài Diệu Vĩnh Trụ Trì chùa Giới Châu tại Việt Thành nhuận duyệt.

Chương 7: Phần Trên - Đại Chúng

1.8 Đạo cụ:

Đạo cụ là vật riêng của Tỳ Kheo Bồ Tát tăng dùng, thuận đạo là vật làm gia tăng pháp thiện. Y cứ theo kinh Phạm Võng có 18 loại đem so với luật có hơi khác. Nay phải hiệp chung mà thuật như sau: 

1) An đà hội là y 5 điều 

2) Uất đa la tăng: y bảy điều 

3) tăng già lê: đại y có 3 phẩm: 

- Phẩm thượng y 25, 23, 21 điều,

- Phẩm trung, y 19, 17, 15 điều, 

- Phẩm hạ, y 13, 11, 9 điều gọi là y phước điền.

Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật ở trước động đá Đế Thích thấy ruộng lúa có bờ ngăn phân minh, nên bảo A Nan rằng chư Phật quá khứ y hình tướng như vậy; từ nay dựa theo hình này may y. Sách Tăng Huy Ký ghi rằng bờ ruộng giữ nước cho lúa mạ sanh trưởng để nuôi thân mạng; ruộng pháp y thấm nhuần vì 4 điều lợi của nước, làm tăng 3 mầm thiện để nuôi pháp thân huệ mạng, nên gọi là y phước điền. 4) Ni sư đàn: tọa cụ trải ngồi thiền cũng gọi là tùy tọa y. Luật Ngũ Phần ghi rằng, vì hộ thân, hộ y, hộ giường nệm nên sắm tọa cụ. 5) Tăng kỳ chi: áo đơn (lót) cũng gọi là áo che trong hay áo lót mồ hôi 6) Nê phược ta la: quần thiền thường gọi là kim cang khố (quần đùi), tọa thiền nạp tử, làm cho được tiện lợi 7) Trực chuyết: áo dài chấm sát đất, thường gọi là bào tử, cũng gọi là hải thanh. Trở lên 3 món trích từ luật Tỳ Ni. 8) Bát Đa la: bình bát, Trung Hoa dịch là Ứng lượng khí. Y cứ theo Tây Vức (Ấn Độ) chư tăng đều đi trì bình khất thực. Bát này tùy sức dùng của mỗi người mà có nhỏ lớn khác nhau. Lấy một bát ăn no là lượng, cho nên gọi là đồ lường thích hợp. 9) Tỏa khí la: tích trượng. Căn cứ theo kinh có 2 loại: một loại 4 đốt 12 khoen mà thời nay dùng; một loại là 2 đốt 6 khoen (vòng) hình nhỏ, nặng một cân mà hồi Phật tại thế Tỳ Kheo hay dùng. 10) Trụ trượng: gậy chống. Luật Tỳ Nại Da ghi rằng, Phật nghe tiếng lắc cắt gậy chống, vì biết già lụn mất sức, hay người bịnh khổ thân nên phải dùng. 11) Phất tử: phất trần (bụi). Luật ghi rằng Tỳ Kheo sợ bị cỏ, côn trùng nên làm đồ phủi bụi (phất trần). Luật Tăng Kỳ ghi rằng, Phật cho làm tuyến phất, quặc phất. Nếu đuôi ngựa hay vật kim ngân báu quí trang trí đều không nên cầm. 12) Sổ châu: chuỗi tràng hay tràng hạt niệm Phật, phần nhiều lấy gỗ tiện 18 hột, 108 hột làm một xâu đeo nơi thân. Trở lên 3 vật trích từ luật Tỳ Kheo 13) quấn trĩ ca: bình đựng nước (quân đội dùng) thường chứa nước mang theo mình dùng uống hay rửa tay. Ký Quy truyện ghi rằng bình chứa nước quân nhân có 2 loại: bình bằng đất nung, nhôm dùng để uống và bình bằng đồng, thiếc để rửa. 14) Táo đậu; (xà phòng) tạo giác dùng để tắm rửa 15) Thủ cân: khăn tay 16) hỏa toại: hộp quẹt, dao lửa, đá lửa, giấy mồi lửa v.v… 17) Lự thủy nang: đãy lọc nước. Tăng Huy Ký ghi rằng, đồ vật dù nhỏ nhưng công dụng rất lớn để bảo vệ sanh mạng, cho nên dùng lụa thật nhuyễn may đó; lọc vi trùng trong nước mới có nước sạch để uống. 18) giới đao: dao cạo tóc. Căn cứ theo kinh Phạm Võng có thêm: tăm xỉa răng, giường dây, nhiếp nhổ râu, lư hương, hộp kinh luật, tượng Phật, tượng Bồ Tát. Kinh Phạm Võng lặp lại: đi hành cước xa nên dùng Kinh - luật - tượng. Luật tạng trọng ở phân ra khu phố khất thực nên dùng cây gậy, phất trần, chuỗi tràng hợp dùng chung là 26 thứ. Tăng hành cước có 26 món nầy như chim có đôi cánh thường đem theo bên mình nên gọi là đạo cụ vậy.

Chứng nghĩa ghi Luật Học Cương Duy nêu rằng đạo cụ hộ giới có 18 loại thường mang theo bên mình như: nhành dương, đậu tắm thoa mình, thắng nhiễm tục thời, 3 y vải vụn; ăn tạm thực thời một bát nuôi thân, đủ khai đất thánh. Bình đựng nước suối, tích trượng tiêu biểu hiền Thánh. Lư hương chỉ cái thể thanh tịnh, đãy lược nước cứu vật, khăn lau, đồ phất trần, dao dùng để hàng ma, đèn pin soi chỗ tối, nhiếp nhổ râu nhổ sạch phiền não; giường dây để dứt bỏ tánh cao ngạo. Tiến trình đãi lọc thành tâm giữ gìn 3 nghiệp. Tượng Phật biểu hiện quả, Bồ Tát làm sáng tỏ nhân. Ngoài ra, y cứ theo Ngài Ngẫu Ích sách Giới Y biện ngụy ghi rằng, người xuất giay pháp, cũng như quan có đồng phục vậy. Giới của 7 chúng không đồng, còn y cũng khác biệt. Phật dạy 3 y: tăng già lê là 9 điều hoặc 13 điều. 25 điều gọi là phẩm rốt sau, không phải là trên thượng phẩm, Uất Đa La tăng là y 7 điều và An Đà Hội chỉ y 5 điều. Ba y này đều gọi là Ca Sa phải là vải hoại sắc, không phải sắc são nên cũng gọi là y phước điền, vì hình chiếc y giống như ô ruộng phước. Ngoài ra cũng còn tượng trưng vị Tăng làm ruộng phước cho thế nhân. Là Tỳ Kheo nên có đủ 5 y, 3 y như đã nêu trên thêm áo lót mồ hôi và áo che cánh tay. Sa Di chỉ có 2 y: y trên tức y không có sọc ngang cũng gọi là mạn điều y, màu giống như Tỳ Kheo, giới là khác Tỳ Kheo, chỉ may thẳng không cắt thành ô (vuông). Luật ghi rằng, người cầu vắng lặng mặc lấy mạn y thường thường mặc y cắt mãnh mắc tội lạm dụng nặng. Bởi Sa Di tuy đã xuất gia vẫn chưa nhập vào hàng Tăng bảo. Vì thế, y 5 điều do không cắt mãnh, huống chi là 7 điều, 9 điều ư? Nội y tức là áo mặc bên trong để che lót mồ hồi. Là Bồ Tát tại gia tức là Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di thời không cho may y 5 điều mà qui định giống như Sa Di. Y của Bồ Tát tại gia chỉ mặc nơi đạo tràng lúc tu tập hành đạo, còn bình thường không được mặc đắp. Vì thế có khác Sa Di. Ngày nay, y của Tăng sai luật bày ra 9 điều cho thọ giới Sa Di làm cho có đủ 3 y, là một việc dối vậy. Sa Di cho đắp y 7 điều đâu có khác gì Tỳ Kheo là một việc dối thứ hai. Người trước không biết làm sai thường hay cho người cận sự đắp 3 y; người sau kiêu mạn phạm lỗi lầm, đều cấm cận sự không được đắp y 5 điều, là một việc dối thứ ba. Hết thảy qui định y đều lấy chiều đứng 3 khung, ngang 5 khung làm độ, giả sử có tăng giảm đôi chút cũng chỉ để cho phù hợp với tay và thân. Nay chiều đứng 3, chiều ngang 6 khung đó là điều sai lầm, là một việc dối thứ tư. Y phước điền chỉ tương tự hình thửa ruộng nay nhầm lẫn cho rằng, phải thông đường nước là điều dối thứ năm. Y 5 điều, 7 điều cũng tùy có loại vải cũ rộng hẹp mà may thành điều nhiều ít, nay lầm cho rằng, khối đó tượng trưng cho núi Tu Di, khối kia biểu tượng mặt trời, khối nọ tượng mặt trăng, khối đây tượng trưng Tứ Thiên Vương v.v…là điều dối thứ sáu. Tăng Già Lê dịch là Đại Y hoặc hợp trùng y hay còn dịch nghĩa là y tạp sắc do kết nạp nhiều mãnh vải lại may thành. Nay lạm dùng vải nhuyễn mịn, lại còn thêu hoa lên trên nữa, gọi là y thiên hoa, là điều dối thứ bảy. Quy định 3 y của thiên Phật có điểm đồng nên gọi y nghìn Phật. Sách Vân Thê Chánh Ngoa đã luận, nay còn thêu Phật nơi y, là điều dối thứ tám. Người xuất gia dùng tất cả y phục, tọa cụ đều hoại sắc; nay ngược lại lấy 5 màu may y rực rỡ, là điều dối thứ chín. Lại y cứ tấm tọa cụ xứ Tây Vức chỉ dùng riêng cho việc tọa thiềnĐông Độ dùng để lễ bái, không biết phát xuất từ lúc nào. Dựa theo luật Tứ Phần thứ 15 trong pháp xã đọa: phàm may tọa cụ mới đều phải dùng cái cũ may lên cái mới. Nay lầm dùng sắc mới vải mới viền 4 góc gọi là Tứ Thiên Vương, thật là quá sai lầm!

Bát Đa La dịch là ứng lượng khí, cái bát để lường thức ăn của tăng. Phật cho xử dụng sắt, đất nung v.v… tạo thành; nay lạm dụng bằng đồng, thau hoặc nhôm hay gỗ đều trái với quy định. Lại luật có ghi rằng bình bát dùng thuốc thơm xông kỹ khi đựng đầy vật vẫn không nứt, không rỉ chảy dầu mở v.v… cho nên ngày nay ta biết ăn canh không làm dơ bát, nhưng không biết dùng thuốc xông bèn cho đũa vào bát lấy thức ăn đưa vào miệng, thật là mất oai nghi. Ngoài ra, giới cấm không cho mang bát bằng vàng bạc, châu báu.

Tràng hạt: Kinh Đại Thừa Man Thù hiệu lượng số châu ghi rằng, lấy cây mộc liên tiện thành hạt, hạt Bồ Đề là tốt nhất. Ngày nay chuỗi tràng phần nhiều dùng vàng châu, vật quý giá, để như một phần làm đồ trang sức. Điều này làm tăng trưởng tham lam, lại dễ bị đánh cắp. Đây đều là dối trá không thể không luận cho đúng. Ngoài ra cho chí những đạo cụ khác tuyệt đối không dùng. 

Trong không có tâm hộ giới, ngoài không oai nghi gìn luật, làm gì không phạm qui chế tăng chứ? Mong sao hàng Thích Tử chúng ta cùng nhau duy trì chánh pháp ngỏ hầu vãn hồi (vớt vát) tệ nạn, làm giềng mối tăng già mới là tuân lời Phật dạy. Mong sao đối với việc tự lợi, lợi tha đừng cho rằng đây là chấp tướng, mà ẩn mình nơi nhãn hiệu vô tướng. Cũng không nên cho rằng ta là thiền tông dùng những đồ tu hạnh đầu đà này làm gì? Nghĩ sao không suy kỹ Ngài Đại Ca Diếpsơ Tổ thiền tông tại sao hành hạnh đầu đà đệ nhứt?
1.5 Lễ Cầu dứt mưa

Nghi thức cầu nắng ráo dẫn giải đầy đủ trong kinh Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa do chính Phật nói. Kinh này chỉ có trong Đại Tạng nên ở đời khó mà thực hành. Vã nay tùy đời mà hành, nhất là mưa rỉ rả lâu không tạnh, chùa cử hành theo nghi này. Thầy Trú Trì bạch Ngài Phương Trượng, kế ra thông báo dán nơi sơn môn. Tờ thông báo viết: cầu tạnh ráo. Nên dùng giấy vàng viết thông báo, nội dung như sau: Nam Mô Kim Cang Quang Diệm dứt gió mưa, Quang Diệm hội thượng Phật, Bồ Tát. Tất cả viết thành như bài vị thiết trí một nơi cho nghiêm trang lập đàn tràng có đầy đủ lễ phẩm cúng dường. Thầy Trụ Trì phải đặc biệt gia tâm, tăng chúng các ban chuẩn bị sẵn sàng, nếu có quan chức mời họ niệm hương. Không có, các vị ở chùa phát tâm niệm hương bạch Phật cầu nguyện. Mỗi ban phải thành tâm cầu nguyện để mong thông đạt tới ý trời, nên không phải là một câu chuyện hư cấu. Đến ngày lễ, vị thư ký trước phải hội ý, mời Thầy Duy Na, Duyệt Chúng, thông báo dán ở phòng khách đầy đủ ngày giờ làm lễ tụng kinh cầu dứt mưa.

Lễ này theo như các nghi thông thường, tuy có khác là trong 3 ngày, 5 ngày hay 7 ngày tùy thời mà định. Chư tăng luân phiên tụng niệm mỗi ngày 10 vị, trong số cắt cử người nào lo phần gì rõ ràng, cứ tiếp tục tụng kinh cầu nguyện không dứt như vậy trong một tuần lễ hẳn được cảm ứng, sau đó mới chấm dứt và làm lễ tạ. Phàm có tổ chức lễ kỳ nguyện nên lưu ý tới mấy chi tiết như: 1/ mỗi ngày 2 buổi đều có thời tụng kinh tại chánh điện; 2/ dùng hiệu lệnh vân tập chúng đúng thời khắc; 3/ y hậu chỉnh tề; 4/ Thầy Trụ Trì niệm hương bạch Phật, đảnh lễ Tam bảo, cử tán v.v.. Tán rằng:

Đại bi Thánh chủ đạo lý thần chương,

Viên dung vô ngại khó thể so lường,

Nhập đàn đại chúng xin nguyện tuyên dương,

Biến bứt xúc thành trong sạch thanh lương.

Nam Mô Thanh Lương Địa Bồ Tát Ma Ha Tát (3 lần).

Trì tụng 21 biến Chú Đại Bi, tiếp theo niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát 1000 lần hoặc tụng Chú Dược Sư 49 biến và niệm Phật Dược Sư 1000 lần. Kế tiếp đọc sớ như sau:

Cửa trời im ỉm chẳng mở thông

Ngày đêm thê thiết nổi gió giông

Trừ dứt tai ương dân ước nguyện

Hợp thời hé lộ một vừng hồng

Là một trong bốn châu thiên hạ

Châu Nam Thiệm người người chờ mông.

Nước Việt Nam, tỉnh... phủ... huyện... phường… quận.., thành phố… Chùa… Trụ Trì… Nếu có các quan chức nên cho tên họ vào lòng sớ. Hôm nay chí thành dâng hương đảnh lễ Ta Bà Giáo Chủ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Văn Phật, Quang Diệm hội thượng chư Phật, Thánh hiền, thiên long tám bộ chư vị tôn thần đang ngồi trước mặt xin chứng tri lời cung bạch: ngưỡng mong giũ lòng từ rải ánh quang cảm ứng ban cho chúng con… chấm dứt mưa nặng hạt làm tê liệt, mọi vật đều không thông, trăm sông nước tràn đầy, dân tình không nơi nương náu. Mong nghiệp chúng sanh cơ cảm tới trời hiếu sanh là đức, do vậy chúng con thành tâm thiết lập đàn tràng cầu tạnh ráo dứt mưa. Mỗi ngày chư Tăng tụng kinh, trì chú, niệm hiệu Phật, ngưỡng nguyện Chư Thánh mong cho trời quang mây tạnh, sớm ban ân lành rải nắng xuống chúng con và thế gian.

Lại nguyện:

Dẹt mây mờ bốn bề âm chướng tiêu

Mặt trời hồng rọi chiếu chốn trung thiên

Ánh sáng len lõi năm miền hành tinh

Nơi nơi vạn loại thái bình an nhiên

Lòng thành dâng sớ thỉnh Phật, chư Thiên

Oai quang chứng giám thần tiên thi hành.

Ngày…tháng…năm... Phật lịch...

Trụ trì… xin cung kính cẩn sớ.

Duy Na cử bài tán:

Chư Phật Như Lai thương xót chúng sanh,

Vì cầu trời tạnh phá sạch u minh,

Mưa nhiều hẳn được tạnh thanh,

Khắp nơi rải sáng an lành,

Vạn vật vui đón bình minh.

Nam Mô Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát (3 lần).

Tiếp theo nhịp khánh đại chúng đồng niệm:

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật

Nam Mô Nhựt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Nguyệt Quang Biến Chiếu Bồ Tát

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát (mỗi hiệu 3 lạy)

Nam Mô Kim Cang Quang Diệm chỉ phong vũ Kinh Quang Diệm hội thượng Phật Bồ Tát.

Hồi hướng, phục nguyện, tự quy… Đến lượt phiên thứ hai, đại chúng cũng trì tụng kinh chú như trên. Tụng cho đến khi trời tạnh ráo hẳn mới tập họp hết chúng lại làm lễ tạ hồi hướng hoàn kinh.

Chứng nghĩa giải rằng: mọi sanh vật đều nhờ mặt trời, trời nóng bức quả làm cho cây cối tiêu ma; mọi vật thấm nhuần là nhờ nước, nước đọng nhiều làm cho vật hư thối. Cho nên mưa gió không điều hòa hay nắng hạn lâu ngày không mưa đều gây thành nạn họa, mà mưa nhiều ngập nước cũng gây tai họa không ít. Điều hợp lý nhất là mong cho gió thuận mưa hòa, là ước muốn của mọi người, cũng như mọi loài.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 31257)
Kinh Lăng Nghiêm có thể giáo hóa, khiến cho “tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí” nghĩa là tất cả loài hữu tình và vô tình đều có thể viên thành Phật đạo.
(Xem: 26164)
Đối với sáu căn thì căn tai là bậc nhất cho nên hành giả chỉ cần đi sâu vào một căn thì sáu căn liền thanh tịnh. Quán Thế Âm là dùng “Văn Tư Tu”, văn là nghe, tư là suy nghĩ...
(Xem: 27453)
Nội dung kinh này thuyết minh về Như lai tạng, quả đức của Phật. Nói rõ hành giả đoạn trừ phiền não nào, để chứng đắc Nhị thừa quả... HT Thích Đức Niệm dịch
(Xem: 27837)
Sa-môn Gotama từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình. - Này các Tỷ-kheo, đó là lời tán thán Như Lai của kẻ phàm phu.
(Xem: 26651)
Tác phẩm của Tiến sĩ Thích Minh Châu có nhiều khám phá đáng ngạc nhiên. Ông đã chứng minh rằng bản kinh A-hàm (Àgama) bằng chữ Hán và bản kinh bộ Pàli (Pàli Nikàya) này có rất nhiều điểm tương đồng và cũng khá nhiều dị biệt.
(Xem: 31128)
Trong kho tàng kinh điển Đại thừa, kinh Diệu Pháp Liên Hoabộ kinh được truyền bá rất sớm và rất rộng rãi, đã từng là bộ kinh cơ bản cho tông Thiên thai tại Trung Hoa và tông Nhật Liên tại Nhật Bản.
(Xem: 20194)
Ta nghe như vầy: một thuở nọ Đức Phật ở trong non Linh Thứu, ngồi trên đài thanh tịnh cùng các vị Bồ Tát, Thanh Văn, Thiên Long bát bộ vây chung quanh nghe Phật thuyết pháp.
(Xem: 22819)
Joseph Goldstein dạy thiền Vipassana như là một phương pháp giúp ta nhìn thấy được chân tướng của sự vật, không bị thành kiến, óc phân biệt làm lu mờ.
(Xem: 29955)
Quyển “Kinh Bốn Mươi Hai Chương Giảng Giải” được hình thành qua hai năm ghi chép, phiên tả với lòng chân thành muốn phổ biến những lời Phật dạy.
(Xem: 21490)
Quyển sách này biên tập mười bài giảng về Kinh Bát Đại Nhân Giác của đại sư Tinh Vân, Tông chủ Phật Quang Sơn ở Đài Loan hiện nay, nên có tên: Mười Bài Giảng Kinh Bát Đại Nhân Giác.
(Xem: 20169)
Trước tiên, quán thế gian vô thường, quốc độ mong manh, như các thứ bờ cao thành hồ, hang sâu hóa gò, quán như vậy, ắt nơi y báo không còn tham cầu.
(Xem: 22569)
đệ tử Phật thì nên hết lòng, ngày cũng như đêm, đọc tụngquán niệm về tám điều mà các bậc đại nhân đã giác ngộ... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 20688)
Giáo lý kinh Duy Ma Cật khai thị cho con người về pháp môn giải thoát bất khả tư nghì. Đó là ai ai trong chúng ta nếu có khả năng đoạn trừ sạch vô minhphiền não thì sẽ thành Phật.
(Xem: 30192)
Trong thành Vương Xávị cư sĩ tên Hiền Hộ là bực thượng thủ năm trăm vị cư sĩ, các vị nầy đều thọ trì năm giới gìn giữ từ cử chỉ nhỏ nhặt...
(Xem: 28713)
Kho tàng tam tạng giáo điển rộng rãi bao la, Kinh Tứ Thập Nhị Chương được coi là một quyển kinh toát yếu nghĩa lý căn bản cho những người xuất gia học Ðạo...
(Xem: 34633)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 44131)
Kinh BÁCH DỤ gồm gần một trăm câu truyện ngụ ngôn đầy sinh độngsúc tích ẩn tàng các giá trị triết lý giáo dục nhân sinh do Đức Phật kể ra để dạy về giáo lýgiáo pháp.
(Xem: 35421)
KINH PHÁP CÚ là cuốn Kinh chọn lọc những lời dạy của đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi còn tại thế. Suốt trong 45 năm thuyết pháp, đức Phật đã nói rất nhiều Pháp ngữ...
(Xem: 22476)
Bồ Tát Thế Thân sinh năm 316 và mất năm 396, sống gần trọn thế kỷ 4. Ngài là người được y bát chân truyền, làm Tổ sư đời thứ 21 của Thiền tông Ấn Độ.
(Xem: 21284)
Khi nói kinh Viên Giác, Phật ở trong trạng thái bất nhị, hiển hiện lên các cõi Tịnh độ. Nếu chúng ta cũng trong trạng thái đó, thì vọng tưởng làm sao có chỗ nảy sinh?
(Xem: 20605)
Như Lai nơi nhân địa tu theo tự tánh Viên Giác, chiếu soi bản thể của tự tánh vốn tịch diệt, biết rõ thân tâm thế giới như hoa đốm trên không... Thích Hằng Đạt dịch
(Xem: 24679)
Nguyên văn chữ Hán của Kinh Viên Giác chỉ có hơn mười ba ngàn chữ mà bao gồm tất cả giáo pháp đốn tiệm của thượng cănhạ căn... HT Thích Duy Lực dịch
(Xem: 37820)
Kinh Hoa Nghiêmbộ kinh đại thừa, là vua trong các kinh, với nội dung siêu việt tuyệt luân hùng vĩ, tráng lệ nguy nga, thể hiện pháp thân, tư tưởngtâm nguyện của Phật.
(Xem: 18951)
Dưới đây là bảng tóm tắt so sánh các bộ Luật Tỳ-kheo hiện đang lưu hành - Bình Anson
(Xem: 19272)
Thế sựphù vân, nếu biết học theo đạo Phật, giữ lấy sự thanh bạch để rèn luyện tinh thần ngày càng tiến đến cõi lành, xa lìa cõi ác.
(Xem: 21726)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0365 - Hán dịch: Lương Da Xá; Việt dịch HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 20811)
CỔ NGÔ – NGẪU ÍCH – Sa-môn TRÍ HÚC giải thích - Việt dịch: Sa-môn THÍCH ÐỔNG MlNH - Nhuận văn và chú thích: Sa-môn THÍCH ÐỨC THẮNG
(Xem: 29439)
Từ ngàn xưa chư Phật ra đời nhằm một mục đíchgiáo hóa chúng sinh với lòng bi nguyện thắm thiết đều muốn cho tất cả thoát ly mọi cảnh giới phiền não khổ đau và đồng hướng cảnh thanh tịnh an vui giải thoát.
(Xem: 35019)
Thiền học Trung Hoa khởi đầu từ Bồ-đề Đạt-ma, vị tổ sư đã khai mở pháp môn “truyền riêng ngoài giáo điển, chẳng lập thành văn tự, chỉ thẳng tâm người, thấy tánh thành Phật”.
(Xem: 28756)
Đạo Phật là đạo của chân lý cần phải học nhiều, suy nghĩ kỹ, trước sau dùng ba môn học chính là giới, định, tuệ mà trừ diệt ba món độc trong tâm là tham, sân, si.
(Xem: 32527)
Hết thảy nội dung được đề cập đến trong tập sách này đều được thể hiện một cách vô cùng sáng tạo, linh hoạt, với rất nhiều ví dụ thích hợp luôn luôn đi kèm theo mỗi vấn đề...
(Xem: 26158)
Bốn tâm vô lượng là cõi nước thanh tịnh của Bồ Tát, khi Bồ Tát thành Phật, những chúng sinh thành tựu các đức từ, bi, hỷ, xả sinh về nước ấy... Đoàn Trung Còn, Nguyễn Minh Tiến
(Xem: 28853)
Nhất thời, Phật tại Tỳ-da-ly, Am-la thọ viên, dữ đại tỳ-kheo chúng bát thiên nhân câu. Bồ Tát tam vạn nhị thiên, chúng sở tri thức.
(Xem: 43042)
Đây là một bản kinh Phật đặc sắc, nêu bật lên ý nghĩa nhân quả bằng những truyện tích nhân duyên rất sống động, được thuật lại với nhiều chi tiết thú vị.
(Xem: 34831)
Khi đức Phật còn trụ thế, ngài từng nói với tôn giả A-nan rằng: “Này A-nan! Sau khi ta tịch rồi, giới luật chính là thầy của các ngươi đó. Giới luật sẽ bảo vệnâng đỡ cho các ngươi.”
(Xem: 43821)
Đại Sư tên Huệ Năng, cha họ Lư, tên húy là Hành Thao. Người mẹ họ Lý, sanh ra Sư nhằm giờ Tý, ngày mùng tám, tháng hai, năm Mậu Tuất, niên hiệu Trinh Quán thứ 12.
(Xem: 37797)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 21272)
Học thiền, chúng ta học Pháp Bảo Ðàn mà không học Tín Tâm Minh là không được. Tổ chỉ tóm gọn tinh yếu của thiền, bao nhiêu lời, bao nhiêu chữ đề là Tín Tâm Minh.
(Xem: 42977)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366, Đoàn Trung Còn và Nguyễn Minh Tiến dịch
(Xem: 48941)
Có một lúc, đức Phật ở trong núi Kỳ-xà-quật gần thành Vương Xá, cùng với các vị đại tỳ-kheo mười hai ngàn người, đại Bồ Tát là tám mươi ngàn người.
(Xem: 39740)
Bấy giờ, đức Thế Tôn ở giữa đại chúng, vì đại chúngthuyết giảng giáo pháp nhiệm mầu, trừ sạch bốn điên đảo, khiến cho được rõ biết các pháp lành...
(Xem: 53723)
Đức Phật Thích-ca Mâu-ni, lúc mới Chuyển pháp luân độ ông A-nhã Kiều-trần-như, đến khi thuyết pháp lần cuối cùng độ ông Tu-bạt-đà-la.
(Xem: 36771)
Phật dạy Tu-bồ-đề: “Phàm những gì có hình tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng thật chẳng phải tướng tức là thấy Như Lai.
(Xem: 40736)
Phật bảo Văn-thù-sư-lợi: "Về phương đông, cách đây vô số cõi Phật nhiều như số cát sông Hằng, có một thế giới tên là Tịnh Lưu Ly.
(Xem: 49659)
Lúc ấy, Bồ Tát Vô Tận Ý từ chỗ ngồi đứng dậy, vén tay áo bên vai mặt, quỳ xuống chắp tay cung kính bạch Phật rằng...
(Xem: 47225)
Thế Tôn thành đạo dĩ, tác thị tư duy: “Ly dục tịch tĩnh, thị tối vi thắng.” Trụ đại thiền định, hàng chư ma đạo. Ư Lộc dã uyển trung...
(Xem: 27612)
Mặc dù đã có không ít những lời khuyên dạy về lòng hiếu thảo từ các bậc thánh hiền xưa nay, nhưng những nội dung này có vẻ như chẳng bao giờ là thừa cả.
(Xem: 26976)
Đức Phật giáng sinh ở miền Trung Ấn Độ mà hiện nay được gọi là nước Nepal, một nước ở ven sườn dãy Hy mã lạp sơn, là dãy núi cao nhất thế giới và tiếp giáp với nước Tây tạng.
(Xem: 27171)
Ðạo Phật là lẽ sống giác ngộ do Phật tìm ra. Ðạo Phật không phải là một "tôn giáo" theo định nghĩa thông thường mà là phương pháp giác ngộ hay là con đường đưa đến sự thể nhập chơn lý.
(Xem: 24026)
Tâm thanh tịnh tức thể nhập đạo. Muốn tâm được thanh tịnh chóng mau không gì bằng dùng nước giáo pháp của Phật gội rửa để cho cấu uế phiền não tiêu sạch.
(Xem: 20797)
Những giáo pháp được đức Đạo sư nói ra không ngòai mục đích ban vui cứu khổ đưa đến an vui Niết-bàn giải thóat, cho dù là thiên kinh vạn quyển được triển khai từ những lời dạy cơ bản của Ngài...
(Xem: 34269)
Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ vào hơn hai ngàn năm trăm năm (2500) trước. Sau khi Đức Phật Thích Ca nhập diệt gần hai trăm năm mươi năm (250) thì trở thành tôn giáo mang tính thế giới...
(Xem: 22414)
Nói đến Phật giáo là nói đến Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng tổng hợp lại thành một Phật giáo hoàn chỉnh. Vì vậy, nếu hiểu rõ Phật, Pháp, Tăng là hiểu rõ toàn bộ Phật giáo.
(Xem: 25040)
Quyển sách này là một luận thư có quyền uy tối cao đối với phật giáo Nam truyền. Nội dung của nó ví như một bộ bách khoa toàn thư, có thể so sánh ngang với bộ Ðại Tỳ Bà Sa Luận của Thượng Toạ Hữu bộ.
(Xem: 25781)
Quyển Kinh Lời Vàng này nguyên danh là "Phật Giáo Thánh Kinh" do nữ Phật tử Dương Tú Hạc biên trước bằng Hán Văn (người Trung Hoa).
(Xem: 22894)
Trong quyển sách này, ngài Dhammika giải đáp những thắc mắc về giáo huấn của Đức Phật mà người ta thường nêu lên để hỏi ngài. Lối trả lời của ngài thật là chính xác, rõ ràngminh bạch.
(Xem: 22430)
Danh từ Ðạo Phật (Buddhism) xuất phát từ chữ "Budhi" nghĩa là "tỉnh thức" và như vậy Ðạo Phật là triết học của sự tỉnh thức. Nền triết học này khởi nguyên từ một kinh nghiệm thực chứng...
(Xem: 21705)
Khi từ bỏ những nơi chốn không thuận lợi, những cảm xúc hỗn loạn dần dần phai nhạt; Khi không có những phóng dật, các hoạt động tích cực phát triển một cách tự nhiên...
(Xem: 23280)
Tinh tấn có ba phương diện. Phương diện thứ nhất được gọi là “tinh tấn giống như áo giáp,” là để phát triển một dũng khíchịu đựng đầy hoan hỉ...
(Xem: 21116)
“Phật” không phải là một tên riêng, mà là một danh hiệu chỉ định “một người tỉnh thức” hay “một người giác ngộ.” Về tâm linh, điều này ngụ ý rằng phần đông chúng ta được xem như là “đang ngủ”...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant