Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phẩm 4: Phân biệt về Định

02 Tháng Năm 201100:00(Xem: 8200)
Phẩm 4: Phân biệt về Định

GIẢI THOÁT ĐẠO LUẬN
VIMUTTI MAGGA
Thiện Nhựt chuyển dịch sang tiếng Việt

Quyển Hai

Phẩm 4: Phân biệt về Định

Hỏi: Vào thời kia, người ngồi thiền đã giữ giới luật được thanh tịnh, đang an trú trong cảnh giới thiện lành nhứt, cần nên làm thêm điều gì?

Đáp: Là khiến cho định được khởi lên.

Hỏi: Thế nào là định? Hình tướng của định ra sao? Định có công năng (= vị) gì? Khởi lên ra sao? Do đâu (= xứ) mà ra? Người nào thọ nhận thực hành? Thiền, giải thoát, định (-tâm), chỉ (= ý ngưng lại), cảm thọ khác nhau ra sao? Có bao nhiêu nguyên nhân đưa đến định? Điều gì làm định khởi lên, làm định bị trở ngại? Có mấy pháp về định? Công đức của định có những gì? Cần bao nhiêu điều có trước rồi định mới khởi lên? Có mấy loại định? Định khởi lên cách nào?

Đáp: Định có nghĩa là tâm thanh tịnh, gom về một hướng, tinh tấnvắng lặng an trú trong chơn lý chơn chánh, chẳng hề bị loạn động.

Lại nữa, ngọn gió mãnh liệt của phiền não chẳng thể làm nghiêng ngả được tâm tư, cũng tựa như ngọn đèn chẳng lay động treo trong đại sảnh nơi cung điện. Như có nói trong A-tỳ-đàm (Abhidhamma, Luận tạng): "Nếu tâm an trú đúng đắn, chẳng bám vịn vào đâu, cũng chẳng loạn động, yên vắng, chẳng bị ràng buộc, khiến cho định căn (= khả năng đắc được Định) và định lực sức mạnh của Định được đúng đắn; đó gọi là định."

Định: hình tướng, công năng, khởi lên ra sao và từ đâu?

Tâm an trúhình tướng của định. Điều phục được sự oán hờn là vị của định (hay công năng của Định, tức là nhờ Định mà dẹp bỏ được oán hờn). Yên vắng là sự khởi phát của định. Vào chỗ ô nhiễm chẳng bị nhuốm dơ, tâm được giải thoát, đó gọi là nơi (xứ) định được khởi phát lên.

Người đang tập định như thế nào? Tâm, tâm sở (= các tâm trạng), và các phương tiện (= ở đây có nghiã là khả năng), đều quân bình (= ngang nhau), tựa như tay cầm cây cân đòn, như dầu đựng trong chén. Chánh niệmtinh tấn cùng đi song hành ngang nhau, cũng tựa như bốn con ngựa, sức mạnh đồng nhau, cùng kéo một cổ xe. Các nghĩ suy đứng dừng lại, như người thợ làm tên đang chú tâm vót tên cho thật thẳng. Định cũng như liều thuốc giải được chất độc, vì định làm tiêu nỗi oán hờn.

Như A-tỳ-đàm có nói: "Ý nghiã của Định là sự liễm nhiếp" (liễm = thâu góp lại; nhiếp = thay thế và bao trùm hết lại). Theo ý nghiã nầy của chữ Định là có được một định nghiã hàm súc đầy đủ.

Thiền, là nói tới sơ thiền cho đến tứ thiền.

Giải thoát, là nói đến tám pháp giải thoát, như pháp "có sắc tướng bên trong, quán sắc bên ngoài" bảy pháp khác.

Định, là nói đến ba pháp định: giác (= biết, còn gọi là tầm), có quán (= suy tư, còn gọi là tứ) và vân vân.

Chánh thọ nói đến chín cấp bực thiền định.

Thiền là gì? Đó là tư duy (= suy nghĩ) về sự (= đối tượng), suy xét về điều oán hờn, làm cho tâm được sự mừng vui, thoát các chướng ngại, khiến tâm trở nên bình đẳng, có đủ phương tiện để đắc định, được sự tự tại (= tự do, ở đây có nghiã đã thuần thục, chẳng còn ngại gì), chẳng dùng đến hai nghiã (= liễu nghiã, nghiã rốt ráo; bất liễu nghiã, nghiã còn chưa rốt ráo), mà vẫn trú vào chánh thọ, để được giải thoát.

Định đem đến các công đức nào? Thấy có bốn công đức khi định được khởi lên. Bốn công đức nào? Đó là: hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp, vui hưởng tất cả sự vật nhờ quán tưởng, chứng được thần thông, vươn lên đến khắp mọi cõi.

Thế nào là "hiện được an trú trong nguồn vui của Pháp"? Người đắc định sanh ra vô lậu (= dứt sạch các phiền não), tâm sảng khoái nếm được niềm vui xuất thế, hiện thấy được và an trú trong nguồn vui của Chánh Pháp. Do đó, Thế Tôn có nói: "Người ấy thân giữ trong sự tĩnh lặng, sanh ra mừng được sự mát mẻ khiến cho từ từ được thành tựu hoàn toàn đầy đủ." Lại nữa, Đức Phật có bảo các Tỳ-kheo rằng: "Trước ta tập hạnh Ni-càn-tử (Nigantha, phái khổ hạnh loã thể), bảy ngày bảy đêm thân chẳng lay động, miệng chẳng mở lời, ngồi im lặng hưởng thọ niềm an lạc." Đó là thấy được Pháp và hiện an trú trong nguồn vui của Thánh Pháp.

Thế nào là "vui hưởng tất cả mọi sự vật nhờ quán tưởng"? Người ngồi thiền được định, tâm chẳng bị năm triền cái bao phủ (triền cái = năm món che đậy), trở nên mềm dịu dễ kham việc quán tưởng các sự vật, phân biệt rõ ràng các ấm (năm uẩn = sắc, thọ, tưởng, hành, thức), các nhập (sáu nhập = mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), các giới (= mười tám giới, từ nhãn giới đến ý thức giới), nên được sự tư tại, an lạc (đối với sự vật và hoàn cảnh). Vì thế, Thế Tôn dạy, chư Tỳ-kheo nên tu hành như thế, dùng định tâm quán sát tất cả để biết muôn sự vật đúng y như thật.

Thế nào là "chứng được thần thông"? Người đã đắc định tâm chứng được năm môn thần thông là như ý túc (biến hiện theo ý muốn), thiên nhĩ (lỗ tai Trời nghe xa), tha tâm (biết ý nghĩ kẻ khác), túc mạng (biết được đời kiếp trước), thiên nhãn (mắt Trời). Vì thế, Thế Tôn có nói, tâm đã đắc định, thì tùy nghi chuyển biến mọi sự như thể theo ý mình muốn.

Thế nào là "vươn lên đến khắp mọi cõi" (nguyên văn: hữu cụ túc; hữu, đây, có nghiã là cõi, ba cõi: dục giới, sắc giới vô sắc giới)? Người đã được định tâm, dầu chưa đến bực vô học (= bực A-la-hán, đã dẹp xong tất cả phiền não, nên chẳng cần học thêm nữa) nhưng rốt ráo cũng được chẳng lùi sụt. Nhờ định mà được báo thân (= thân còn chịu nghiệp báo) sanh vào cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, vươn lên khắp mọi cõi. Như Đức Phật có nói: "Dầu người tu chút ít về sơ thiền cũng được sanh làm quyến thuộc (= bà con thân thích) của Đức Phạm Thiên (trên cõi Trời sắc giới); tất cả mọi chủng loại đều được như thế cả."

Trên đây là bốn công đức khởi lên nơi người đắc định.

Có mấy chướng ngại cho định tâm? Có tám: thú vui (làm thoả mãn các giác quan), giận hờn, lười biếng, mê ngủ, đùa bỡn, nghi hoặc, vô minh (= si mê), chẳng mừng vui. Tất cả các điều dữ ác đều làm trở ngại cho định tâm.

Có mấy nguyên nhân khởi lên Định? Có tám nguyên nhân khiến cho tâm được định: dứt bỏ, chẳng giận, tướng sáng (= sự thông minh, có trí huệ), chẳng xao động, và tất cả các pháp thiện lành khiến tâm mừng vui sanh ra trí huệ.

Các điều nào cần phải có rồi định mới khởi? Có bảy loại: giới, vừa ý biết đủ, che giữ các căn, ăn uốngtiết độ, đầu hôm nửa đêm và hừng sáng chẳng mê ngủ, thường niệm trí huệ, ở nơi vắng lặng.

Định có mấy loại? Định có hai loại: thứ nhứt, thế gian định; thứ hai, xuất thế gian định. Việc đắc được các Thánh quả (= bốn quả vị Tu-đà-huờn, Tư-đà-hàm, A-na-hàm và A-la-hán) thuộc về định xuất thế gian (xuất thế,đây, có nghiã là vượt khỏi sự ràng buộc của cuộc đời thế tục). Các thứ Định còn lại đều thuộc về thế gian định. Các thứ định thế gian nầy còn hữu lậu (= còn phiền não), còn kết sử (= điều trói buộc và sai sử), còn ràng buộc, là nước lụt, là ách nặng, là che úp, là cướp giới cuớp chánh kiến, là bám níu, là phiền não. Có đối trị được với các hình tướng của các định thế gian rồi thì mới đáng gọi là định xuất thế.

Lại nữa, định có hai loại: tà địnhchánh định. Thế nào là tà định? Chẳng khéo giữ nhứt tâm, đó gọi là tà định. Khéo giữ nhứt tâm gọi là chánh định. Tà định cần được dẹp bỏ; chánh định cần nên tu tập.

Lại nữa, định có hai loại: ngoại định và an định. Phần định mới khởi đầu thì gọi là ngoại định. Trừ được sự gián đoạn ngăn cách rồi mới gọi là an định.

Lại nữa, định có ba loại: định có giác có quán, định chẳng giác ít quán và định chẳng giác chẳng quán. Thế nào là định có giác có quán? Đó là Sơ thiền (= thiền cấp 1) có giác (còn gọi là tầm), có quán (còn gọi là tứ); Nhị thiền (= thiền cấp 2) hết giác mà còn chút ít quán. Các cấp thiền còn lại thì chẳng có giác chẳng có quán.

Lại nữa, định có ba loại: định sanh có mừng sanh, định sanh có vui sanh, định sanh có xả sanh. Nơi Sơ thiềnNhị thiền, định sanh ra cùng với nỗi mừng (= hỉ). Nơi Tam thiền, định sanh cùng với niềm vui (= lạc). Nơi Tứ thiền, định khởi lên cùng với niệm buông xả (= xả).

Lại nữa, định có ba loại: thiện định, báo định và sự định. Thế nào là thiện định? Người tu học Thánh đạo, cùng với người thường tu sắc định và vô sắc định, đó gọi là thiện định (= định khéo). Còn người tu học Thánh quả cùng với phàm phu được sanh cõi sắc giới, cõi vô sắc giới, đó gọi là báo định (được định nhờ nghiệp báo). Bực vô học (đã chứng quả vị A-la-hán) được sắc định và vô sắc định, đó gọi là sự định (định có đối tượng thực tại).

Lại nữa, định có bốn loại: dục định, sắc định, vô sắc định, vô sở thọ định. Tất cả các hành động được làm theo đúng chánh thọ, đó là dục định. Bốn cấp thiền là sắc định. Bốn cấp vô sắc định nghiệp báo lành là vô sắc định. Bốn thánh đạo và bốn thánh quảvô sở thọ định.

Lại nữa, có bốn cách tu hành về định: độn trí khổ tu, lợi trí khổ tu, độn trí vui tu, lợi trí vui tu. (độn căn, độn trí = có trí chậm chạp; lợi căn, lợi trí = trí thông minh lanh lợi). Có bốn hạng người nầy: thứ nhứt, có nhiều phiền não sâu dầy; thứ hai, phiền não thưa thớt; thứ ba, căn trí lanh lợi; thứ tư, trí óc cùn nhụt.

Nơi người độn căn còn nhiều phiền não sâu dầy cần tu hành khó nhọc thì độn trí mới đắc định. Nơi người lợi cănphiền não còn sâu dầy, cần khổ tu thì lợi trí đắc định. Nơi người độn cănphiền não thưa thớt, nếu vui tu thì độn trí đắc định. Nơi người lợi cănphiền não thưa thớt, nếu vui tu thì lợi trí đắc định.

Như thế, người phiều não sâu dầy, vì cớ còn phiền não cần phải chiết phục (= dẹp, trừ bỏ), do đó việc tu hành mới khó nhọc. Người độn căn, vì cớ căn cơ chậm chạp, cần hành thiền lâu dài để làm thức dậy trí óc cùn nhụt, do đó trước mới gọi đó là độn trí. Dùng phương tiện đó để phân biệt tất cả.

Lại nữa, định có bốn loại: định nhỏ về sự việc nhỏ, định nhỏ về sự việc vô lượng, định vô lượng về sự việc nhỏ, định vô lượng về sự việc vô lượng.

Thế nào là định nhỏ về sự việc nhỏ? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, vì ít tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc nhỏ. Thế nào là định nhỏ về sự việc vô lượng? Định chẳng theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định nhỏ về sự việc vô lượng. Thế nào là định vô lượng về sự việc nhỏ? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc nhỏ, với ít tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc nhỏ. Thế nào là định vô lượng về sự việc vô lượng? Định theo kịp chỗ tâm đã đắc định về sự việc vô lượng, với nhiều tinh tấn, đó gọi là định vô lượng về sự việc vô lương.

Lại nữa, định có bốn loại: dục định, tinh tấn định, tâm định, huệ định. Dục định y theo ý muốn mà tu đắc định. Y theo sự tinh tấn mà tu đắc định gọi là tinh tấn định. Y theo tâm mà tu đắc định gọi là tâm định.Y theo trí huệ mà tu đắc định,gọi là huệ định.

Lại nữa, định có bốn loại: định Phật đắc Thanh văn chẳng đắc được, định Thanh văn đắc mà chẳng phải chỗ Phật đắc, định Phật đắc, Thanh văn cũng đắc, định chẳng phải chỗ đắc của Phật và của Thanh văn. Định đại bi, định song biến là chỗ đắc của riêng Phật, hàng Thanh văn chẳng đắc được. Định về quả vị hữu học (= ba quả đầu tiên của Thanh văn) là chỗ đắc của hàng Thanh văn, chẳng phải của Phật. Định cửu thứ đệ (chín cấp từ sơ thiền đến diệt tận định) và định về quả vị vô học (= cấp A-la-hán trở lên) là chỗ đắc của Phật và Thanh văn. Vô tưởng định chẳng phải là chỗ đắc của Phật và Thanh văn.

Lại nữa, định có bốn loại: (1) định duyên khởi duyên diệt, (2) định duyên diệt chẳng duyên khởi, (3) định duyên khởi chẳng duyên diệt, (4) định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.

Hỏi: Thế nào là duyên khởi chẳng duyên diệt?

Đáp: Nơi cõi dục giới, định khéo và định chẳng khéo là định duyên khởi chẳng duyên diệt. (Duyên khởi = làm nhơn duyên cho sự khởi sanh ra; duyên diệt = làm nhơn duyên gây ra sự tiêu diệt). Định về về bốn Thánh đạo định duyên diệt chẳng duyên khởi. Định khéo của bực hữu học và của phàm phu về cõi sắc giới và cõi vô sắc giới định vừa duyên khởi vừa duyên diệt. Tất cả các định về quả vị và sự định đều là định chẳng duyên khởi chẳng duyên diệt.

Lại nữa, định có bốn loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiềntứ thiền. Lià được năm triền cáithành tựu được giác (= tầm), quán (= tứ), hỉ (= mừng), lạc (= vui), nhứt tâm (= tâm an trú), đó là Sơ thiền. Lià được giác, quán và thành tựu được ba thiền chi (= gồm có hỉ, lạc và nhứt tâm) là Nhị thiền. Lià thêm được hỉ và thành tựu hai thiền chi (gồm có lạc và nhứt tâm) là Tam thiền). Lià được lạc và thành tựu được xả và nhứt tâm thì được Tứ thiền.

Lại nữa, định có năm loại: sơ thiền, nhị thiền, tam thiền, tứ thiền và ngũ thiền. Ngũ thiền tức là năm thiền chi: giác, quán, hỉ, lạc, nhứt tâm. Lià được năm triền cái, thành tựu được năm thiền chi, đó gọi là Sơ thiền. Lià giác, thành tựu bốn thiền chi, đó gọi là Nhị thiền. Lìa hỉ và thành tựu hai thiền chi, đó gọi là Tam thiền. Lià thêm lạc và thành tựu hai chi còn lại, tức là xả và nhứt tâm, thì đắc Tứ thiền.

Hỏi: Tại sao lại nói tứ thiền cùng với ngũ thiền?

Đáp: tùy theo hai hạng người khác nhau mà Nhị thiền có tới hai loại: loại (1) chẳng giác chẳng quán, và loại (2) chẳng giác mà còn chút ít quán. Vì thế, nên có ngũ thiền.

Hỏi: Bằng cách nào người ngồi thiền chuyển từ Sơ thiền sang Nhị thiền?

Đáp: Nơi giácquán còn thô, người ngồi thiền thâu nhiếp niệm tư duy lại, rồi thấy các sự bất lợi của giác và của quán, liền khởi lên sự chấm dứt giác, quán, nơi Nhị thiền. Bằng cách đó, người ấy tuần tự tu tiếp cho đến Tứ thiền.

Lại có người khác cũng từ Sơ thiền chuyển khởi sang Nhị thiền. Người ấy từ giác còn thô, thâu nhiếp sự tư duy lại, nhận được sự bất lợi của giác, đồng thời thấy ra mất giác còn chút ít quán, nên khởi lên được Nhị thiền. Do theo đấy, người ấy tuần tự tu cho đến Ngũ thiền. Vì lẽ đó mà có nói đến Ngũ thiền.

Lại nữa, có năm loại định được gọl là năm phần của chánh thọ: hỉ mãn, lạc mãn, tâm mãn, quang mãn và quán tưởng. Nơi Sơ thiềnNhị thiền, tràn đầy nỗi mừng (hỉ mãn = mừng tràn đầy). Nơi Tam thiền, niềm vui tràn đầy (lạc mãn = vui tràn đầy). Biết được tâm của kẻ khác, đó gọi là tâm mãn (= tâm mở rộng ra khắp). Có được thiên nhãn thông (= mắt Trời thấy xa), đó gọi là quang mãn (quang = ánh sáng; mãn = tràn đầy). Theo dõi được mọi tư tưởng, định khởi lên quán sát trí, đó gọi là quán tưởng.

Lại nữa, định có năm loại gọi là năm trí chánh định. Định đó do từ niềm vui trong hiện tạivị lai, theo thân trí mà khởi lên. Định đó được bực Thánh thực hành, chẳng còn phiền não. Định đó được bực trí huệ tu tập. Định đó yên vắng, khoái lạc, nhưng dầu chỗ đắc là vô song nhưng vẫn còn chưa khuất phục được việc sanh tử. Định đó an vui cao nhứt, theo tánh của chỗ sở đắc vẫn chẳng khuất phục được sanh tửngã kiến. Định đó, niệm nhập (nhập = vào), niệm khởi đều y vào thân trí mà khởi lên.

Lại nữa, đã phân biệt phạm vi của định, sự tu hành với các giai đoạn đầu, giữa và chót, đã biết định có nhiều loại, nhưng cũng nên hiểu rằng tất cả định đều qui về bốn loại thôi.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15810)
Luận Văn Tổng Quát Về Đại Thừa do HT. Thích Trí Quang dịch giải
(Xem: 11118)
Nguyên tánh chân nhưlặng lẽsáng suốt không có gì gọi là chúng sanh (ngã), vũ trụ (pháp)...
(Xem: 53741)
Mông Sơn Thí Thực là một nghi thức đã được sử dụng rất phổ cập trong các ngôi Già lam thuộc hệ phái Phật giáo Bắc tông. Có ba loại nghi thức Mông Sơn: Đại Mông Sơn, Trung Mông Sơn và Tiểu Mông Sơn.
(Xem: 13036)
Bồ-tát Mã Minh tạo luận, Tam tạng pháp sư Chân Đế dịch Hán. HT Thích Trí Quang dịch giải Việt
(Xem: 16607)
Các phương thuốc của thế giới này, đa dạng và nhiều vô kể, thế nhưng chẳng có một phương thuốc nào có thể sánh với Đạo Pháp.
(Xem: 15461)
Tạng Luật được hình thành từ những điều luật được đặt ra để chỉnh đốn đạo đức tác phong của chúng đệ tử Đức Phật...
(Xem: 19218)
"Chỉ vì đại sự nhơn duyên duy nhấtĐức Phật xuất hiện thế gian, đó là muốn mọi người, mọi chúng sanh đều thành Phật đồng như Đức Phật".
(Xem: 19999)
Tại Na-lan-Đà có một phái tu khổ hạnh, vị đứng đầu là Ni-kiền Thân-Tử, ông có cả nghìn đệ-tử, và có người tôn xưng ông là bậc Thánh...
(Xem: 15605)
Được HT Thích Tuệ Sỹ dịch theo bản Sanskrit, do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành năm Quý Mùi.
(Xem: 15391)
Tiếng Phạn “Sa Di”, ở đây dịch là Tức Từ, ý nói: Dứt ác, hành điều từ, dứt nhiễm ô thế giantừ bi cứu giúp chúng sanh. Còn dịch là Cần Sách, hoặc dịch là Cầu Tịch.
(Xem: 15193)
“Sau khi ta diệt độ, nên tôn trọng, kính quý Ba La Đề Mộc Xoa (Giới) như tối tăm gặp ánh sáng, như nghèo khó được của báu."
(Xem: 20429)
Đức Phật dạy rằng, người nào sống không giới luật, tuy ở gần ta mà cũng như cách xa ta muôn dặm; người nào sống có giới luật, tuy ở xa ta muôn dặm mà cũng như ở cạnh bên ta.
(Xem: 24060)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 15546)
Trẫm từng nói: Phật pháp chia ra Đại thừa, Tiểu thừa là việc thuộc về bên tiếp dẫn. Kỳ thật mỗi bước Tiểu thừa đều là Đại thừa, mỗi pháp Đại thừa chẳng lìa Tiểu thừa.
(Xem: 13081)
Tất cả nam nữthế gian giàu sang hay nghèo hèn, chịu khổ vô cùng hoặc hưởng phước vô lượng đều do nghiệp nhân gieo tạo đời trước mà cảm thọ quả báo hiện tại.
(Xem: 20285)
“Nhất thiết hữu vi pháp; Như mộng, huyễn, bào, ảnh; Như lộ diệc như điện; Ưng tác như thị quán.”
(Xem: 13331)
Thành thật luận (Satyasiddhi-sastra) do Ha-lê-bat-ma tạo luận, Cưu-ma-la-thập dịch Hán, Nguyên Hồng dịch Việt, thâu lục trong Đại chính, Đại Tạng Kinh số No 1647.
(Xem: 29054)
Chân Như Quan Của Phật Giáo (Ðặc biệt lấy Bát-Nhã làm trung tâm) Nguyên tác: Kimura Taiken; Việt Dịch: HT. Thích Quảng Độ
(Xem: 11756)
Nguyện cầu hồng ân Tam bảo gia hộ cho toàn thể quý học chúng Bồ tát giới tại gia, có đầy đủ bi trí lực để hoàn thành bản nguyện tự lợi, lợi tha, trong khung trời giải thoát tự tại của chánh pháp Như Lai.
(Xem: 18368)
Tôi được Tăng sai phụ trách hướng dẫn Bồ tát Học xứ cho chúng Giới tử tân thọ Bồ tát giới...
(Xem: 16697)
Kinh AN BAN THỦ Ý là một trong những bản kinh được xuất bản sớm nhất ở Viễn Đông và đã góp phần vào việc phổ biến Phật giáo qua việc giảng dạy cách thức thiền tập...
(Xem: 13283)
Bồ tát Long Thọ trước tác Trung luận gồm 27 phẩm (chương) 446 bài kệ, mỗi bài 4 câu, mỗi câu 5 chữ. Ở Ấn Độ các bản luận giải thích như Vô Úy luận...
(Xem: 12856)
Trong Luật tạng, bộ Luật đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của Phật dạy.
(Xem: 13294)
Một thời Đức Thế Tôn ở tại cung điện của chú tể Đại dương, cùng với chúng đại tỳ kheo tám ngàn vị và chúng đại bồ tát ba mươi hai ngàn vị.
(Xem: 13054)
Người giảng: Lão Hòa thượng Tịnh Không; Cẩn dịch: Vọng Tây cư sĩ – Viên Đạt cư sĩ; Biên tập: Phật tử Diệu Hiền
(Xem: 12925)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 215, Hán dịch Pháp Cự; Việt dịch: Thích Bảo An
(Xem: 13056)
Đại Chánh Tân Tu, Kinh số 706, Bộ Kinh Tập, Hán dịch: Thi Hộ; Việt dịch: Thích Thiên Ân
(Xem: 13605)
Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh quyển thứ 32 số 1648 thuộc Luận Tập Bộ Toàn; Ưu Ba Đề Sa; Tăng Già Bà La; HT Thích Như Điển
(Xem: 11775)
Vãng sinh tập đều ghi chép nhiều truyện có thật đời xưa tu Tịnh độ được vãng sinh Tây phương của đủ các hạng người xuất gia lẫn tại gia, của cả loài vật... Chúc Đức dịch Việt
(Xem: 14303)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Luận Tập, Kinh số 1666; Bồ-tát Mã Minh tạo luận; Hán dịch: Chân Đế; Việt dịch: Nguyên Hồng
(Xem: 17804)
Đây là một quyển kinh Phật Giáo rất phổ thông và đã được dịch ra nhiều thứ tiếng quan trọng trên thế giới... Tâm Minh Ngô Tằng Giao
(Xem: 22677)
Kinh Pháp Hoa ai cũng biết là bộ Kinh Tối Thượng Thừa mà nó không phải Đại Thừa và cũng gọi là Phật Thừa... HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 13485)
Kinh PHÁP-HOA là một bộ kinh lớn mà từ xưa đến nay, sau khi đức Phật diệt-độ, được lưu thông nhứt và được nhiều người tụng-trì nhứt trong các bộ kinh lớn... HT Thích Trí Tịnh
(Xem: 14405)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Hoa Nghiêm, Kinh số 0301, Hán dịch: Thật Xoa Nan Ðà; Việt dịch: HT Thích Minh Lễ
(Xem: 105884)
Sám văn gồm có ba cuốn ngày nay là sám văn ấy. Đem nước từ bi tam muội rửa sạch oan nghiệp nhiều kiếp, lấy ý nghĩa đó để mệnh danh Thủy sám... HT Thích Trí Quang
(Xem: 14647)
Trong đời mạt pháp, các đệ tử của ta chỉ đeo đuổi theo bên ngoài, ít có ai quan niệm đến vấn đề Sanh Tử... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 19851)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0665, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: HT Thích Trí Quang
(Xem: 38492)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0642; Hán dịch: Cưu Ma La Thập; Việt dịch: Định Huệ
(Xem: 15579)
阿 毘 達 磨 俱 舍 論 A Tì Đạt Ma Câu Xá Luận I... dịch theo bản Sanskrit... Tuệ Sỹ
(Xem: 34764)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 16124)
Phật Thừa Tôn Yếu luận là một trong nhiều tác phẩm của Đại sư Thái Hư, mang ý nghĩa bao quát nội dung giáo nghĩa Đại thừa Tiểu thừa... Thích Thiện Hạnh Dịch
(Xem: 11401)
Kim Sư Tử Chương là một tác phẩm rất ngắn của thầy Pháp Tạng nhưng bao hàm được giáo lý của Kinh Hoa Nghiêm... HT Thích Nhất Hạnh
(Xem: 15724)
Luận Phật Thừa Tông Yếutùy thuận theo thời cơ lược nói về tông bảncương yếu của Phật pháp... Nguyên tác: Đại sư Thái Hư; Thích Nhật Quang dịch Việt
(Xem: 14082)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0639, Hán dịch: Na Liên Ðề Da Xá, Việt dịch: Thích Chánh Lạc
(Xem: 12878)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0628, Hán dịch: Pháp Thiên, Việt dịch: Thích nữ Tịnh Nguyên
(Xem: 13764)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0626, Hán dịch: Chi Lâu Ca Sấm, Việt dịch: Phật tử Phước Thắng
(Xem: 12571)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0619, Hán dịch: Đàm Ma Mật Đa, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 19446)
Từ Bi Thủy Sám Pháp - Trước thuật: Ngộ Đạt Thiền Sư; Dịch Giả: Thích Huyền Dung
(Xem: 27084)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Sử Truyện, số 2076, Nguyên tác Đạo Nguyên, Việt dịch: Lý Việt Dũng
(Xem: 13185)
Thiết Lập Tịnh Độ là quyển sách của HT Thích Nhất Hạnh giảng giải về Kinh A Di Đà với góc nhìn thiền học
(Xem: 13538)
Việt dịch: Hòa Thượng Thích Trí-Tịnh, Anh dịch: Quảng Định / Quảng Hiếu hiệu đính, Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 21688)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0615, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 18030)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0614, Hán dịch: Cưu Ma La Thập, Việt dịch: Thích Nguyên Xuân
(Xem: 21981)
Quyển "Thập thiện nghiệp đạo kinh giảng yếu" của ngài Thái Hư Pháp sư, thấy tóm tắt dễ hiểu, lời lẽ giản dị mà ý nghĩa đầy đủ, lại rất hợp với căn cơ hiện tại... Thái Hư
(Xem: 14265)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0600, Hán dịch: Thực Soa Nan Đà, Việt dịch: HT Thích Tâm Châu
(Xem: 16131)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Kinh Tập, Kinh số 0599, Hán dịch: Nghĩa Tịnh, Việt dịch: Nguyên Thuận
(Xem: 16199)
Bản dịch Việt được thực hiện bởi Nhóm Phiên dịch Phạn Tạng, dựa trên bản Hán dịch của Huyền Trang, A-tì-đạt-ma Câu-xá luận... Tuệ Sỹ
(Xem: 19170)
Theo Viên TrừngTrạm Nhiên (1561- 1626), ở trong Kim cang tam muội kinh chú giải tự, thì Đức Phật nói kinh nầy sau Bát nhãtrước Pháp hoa... Thích Thái Hòa
(Xem: 24869)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant